Dự án 7 ở vùng nhiều dân tộc tại Nghệ An
(Dân trí) - Từ lâu được xem là điểm nóng về khó khăn trong tiếp cận dịch vụ y tế, nhờ Dự án 7 Chương trình mục tiêu quốc gia, dịch vụ y tế đến gần hơn với từng gia đình, từng bản làng.
Huyện Tương Dương (cũ), nay có 9 xã, với nhiều bản cách trung tâm xã 20-40km đường đồi núi. Các xã như Tam Quang, Xá Lượng, Lượng Minh, Tam Hợp, Yên Na, Yên Hoà… mỗi khi mưa về thường bị chia cắt bởi sạt lở, lũ ống, lũ quét. Tại 9 xã này có đến 7 dân tộc thiểu số khác nhau sinh sống.
Dân cư chủ yếu là người Thái, Mông, Khơ Mú với tập quán sinh con tại nhà, ít đến cơ sở y tế. Điều này khiến công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em từng gặp vô vàn khó khăn. Có bản đi lên phải mất 3-4 tiếng, trời mưa thì gần như không thể vào được. Bà con vẫn còn thói quen tự đỡ đẻ tại nhà.

Cán bộ y tế xã Lượng Minh, đi tuyên truyền về dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ trẻ sơ sinh và trẻ em (Ảnh: Quang Dũng).
Những đặc thù này khiến 9 xã trở thành địa bàn trọng điểm khi triển khai Dự án 7.
Để đáp ứng yêu cầu của chương trình, Trung tâm Y tế huyện đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ trạm y tế 9 xã về xử trí cấp cứu sản khoa trong điều kiện thiếu thốn thiết bị, kỹ năng theo dõi, chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi, hướng dẫn sử dụng các bộ dụng cụ hỗ trợ sơ sinh, cấp cứu ban đầu, truyền thông thay đổi hành vi, tiếp cận nhóm phụ nữ Mông, Khơ Mú. Nhờ các lớp tập huấn, nhiều cán bộ y tế đã tự tin hơn trong xử lý các ca sản khoa nguy hiểm.
Nhiều trạm y tế của các xã trước đây gần như không có thiết bị cơ bản. Bộ bàn sưởi sơ sinh, máy đo SPO2, túi oxy, bộ hút dịch… đều thiếu, khiến nhiều ca cấp cứu rơi vào nguy hiểm.
Nhờ Dự án 7, các thiết bị này đã được bổ sung cho nhiều trạm y tế, đặc biệt là các xã vùng sâu như Yên Na, Tam Hợp, Nga My, Hữu Khuông, Nhôn Mai.
“Trước đây, trẻ sinh non rất khó giữ ấm. Nay có máy sưởi và bộ cấp cứu, khả năng cứu sống cao hơn nhiều”, một cán bộ y tế xã Nhôn Mai cho biết.
Một trong những điểm mạnh của Dự án 7 tại các xã này là công tác truyền thông được làm kỹ, phù hợp ngôn ngữ và văn hóa từng bản. Ở bản người Mông, cán bộ dùng tiếng Mông để giải thích về dinh dưỡng và tiêm chủng. Ở bản Khơ Mú, các buổi truyền thông được tổ chức theo nhóm nhỏ để bà con dễ tiếp thu. Ở cộng đồng người Thái, loa phát thanh bản được tận dụng tối đa trong các đợt tuyên truyền. Nhờ vậy, nhận thức của người dân về việc khám thai, sinh đẻ tại cơ sở y tế và theo dõi dinh dưỡng trẻ nhỏ tăng lên rõ rệt.
Tỷ lệ phụ nữ mang thai khám đủ 3 lần tăng lên, số trẻ dưới 5 tuổi được theo dõi biểu đồ tăng trưởng tăng cao hơn trước, tỷ lệ sinh tại cơ sở y tế tăng, đội ngũ y tế thôn bản hoạt động hiệu quả hơn, trở thành “cánh tay nối dài” của trạm y tế.
“Cán bộ nói phải đi khám thai để biết thai có khỏe không. Trước mình không đi, giờ đi đều lắm”, một thai phụ ở xã Lượng Minh vui vẻ cho biết.
Dù đạt nhiều kết quả, nhưng các xã này vẫn còn nhiều thách thức do đường sá chia cắt, nhiều bản đi lại khó khăn, thiếu bác sĩ tại nhiều trạm y tế, một số xã địa bàn rộng, dân cư phân tán, khó tổ chức truyền thông tập trung.
“Trong thời gian tới, xã sẽ tiếp tục ưu tiên các bản vùng sâu, tăng cường hỗ trợ y tế thôn bản, củng cố hệ thống y tế cơ sở và đẩy mạnh truyền thông dựa trên văn hóa bản địa để thực hiện hiệu quả nhất dự án 7, chương trình mục tiêu quốc gia”, ông Nguyễn Văn Hoà, Chủ tịch UBND xã Lượng Minh cho biết.
Quang Dũng











