1. Dòng sự kiện:
  2. Thực hành chữ "S" trong ESG

Xây dựng khung trình độ quốc gia còn chậm và nhiều vướng mắc

(Dân trí) - Việt Nam vẫn đi chậm so với các nước trong khu vực và còn nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai khung trình độ quốc gia.

Ngày 23/9, tại Hà Nội, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐ-TB&XH) đã phối hợp tổ chức hội thảo triển khai khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với giáo dục nghề nghiệp.

Tham dự hội thảo có đại diện Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, đại diện các Bộ Giáo dục, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Tổng Liên đoàn lao động, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và ban ngành liên quan,…

Hội thảo nhằm tham vấn về kế hoạch triển khai khung trình độ quốc gia Việt Nam (cấu phần giáo dục nghề nghiệp) giai đoạn 2020-2025. Dự thảo báo cáo tham chiếu thành phần của Việt Nam với khung tham chiếu ASEAN.

Xây dựng khung trình độ quốc gia còn chậm và nhiều vướng mắc - 1

Hội thảo triển khai khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với giáo dục nghề nghiệp diễn ra ngày 23/9.

Dự thảo đưa ra kế hoạch thực hiện khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ của giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2025, nêu rõ một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.

Cụ thể, xây dựng và ban hành các văn bản, tài liệu để triển khai thực hiện khung trình độ quốc gia đối với các trình độ giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và ban hành chuẩn đầu ra theo lĩnh vực ngành nghề đào tạo nghề nghiệp. Đồng thời triển khai, cập nhật, phát triển chương trình đào tạo nghề nghiệp theo khung trình độ quốc gia.

Phát biểu tại hội thảo, TS. Trương Anh Dũng - Tổng Cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp - cho biết: “Từ năm 2016 đến nay, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đã triển khai xây dựng khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học phải đạt được sau khi tốt nghiệp trung cấp và cao đẳng, là chuẩn đầu ra trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp”.

Xây dựng khung trình độ quốc gia còn chậm và nhiều vướng mắc - 2

TS. Trương Anh Dũng - Tổng Cục Trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp phát biểu tại hội thảo

Theo ông Trương Anh Dũng, đến nay, Tổng cục đã phối hợp ban hành được 320 chuẩn đầu ra cho 160 ngành nghề. Dự kiến thời gian tới, Tổng cục sẽ bổ sung thêm khoảng 100 chuẩn đầu ra cho các ngành nghề khác nhau.

Cũng theo ông Trương Anh Dũng, trong quá trình triển khai sắp tới sẽ có rất nhiều những khó khăn, vướng mắc trong bối cảnh tiến độ thực hiện đang quá chậm so với một số nước như Thái Lan, Philipin, Indonesia,..

“Nhân lực và nguồn lực, tài chính để thực hiện xây dựng khung trình độ quốc gia Việt Nam đang là là một thách thức lớn. Việt Nam mới chỉ có một số cá nhân tham gia, trong khi đó cơ chế tổ chức thực hiện trên một số nước có cả hội đồng để thực hiện khung trình độ quốc gia. Ngoài ra, vấn đề liên thông các bậc học chưa rõ ràng” - ông Trương Anh dũng cho biết thêm.

Trao đổi tại hội thảo, TS. Nguyễn Quang Việt - Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục nghề nghiệp (Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp) cho rằng, chuẩn đầu ra là tập hợp các kiến thức, kỹ năng hoặc năng lực mà cá nhân đạt được sau khi hoàn thành một quá  trình học tập theo hình thức chính quy, không chính quy hoặc phi chính quy,...

Xây dựng khung trình độ quốc gia còn chậm và nhiều vướng mắc - 3

TS. Nguyễn Quang Việt - Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục nghề nghiệp - chia sẻ tại hội thảo

Ông Nguyễn Quang Việt cho biết: “Một số vấn đề đặt ra khi triển khai khung trình độ quốc gia Việt Nam như, cần phải thống kê, phân loại để xây dựng danh mục và phân loại ngành nghề đào tạo, liên thông. Ngoài ra, chưa có điều kiện để đảm bảo chất lượng trình độ”.

Cũng theo ông Nguyễn Quang Việt, các nhân tố làm ảnh hưởng đến việc xây dựng khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với giáo dục nghề nghiệp như, nhu cầu của các địa phương khác nhau về quy mô, mật độ dân số, điều kiện thị trường lao động, kinh tế, thành phần dân tộc, văn hóa truyền thống, giáo dục,...

Mục đích của việc xây dựng khung trình độ quốc gia Việt Nam nhằm phân loại, chuẩn hóa năng lực, khối lượng học tập tối thiểu và văn bằng chứng chỉ phù hợp với các trình độ thuộc giáo dục nghề nghiệp.

Đồng thời, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực, tạo cơ chế liên thông giữa các trình độ đào tạo. Thiết lập mối quan hệ với khung trình độ quốc gia của các nước khác thông qua các khung tham chiếu trình độ khu vực làm cơ sở thực hiện lẫn nhau về trình độ.