Khi nào người lao động được thanh toán tiền phép năm?

Tùng Nguyên

(Dân trí) - Theo Bộ luật Lao động 2019, người lao động chỉ được thanh toán tiền không nghỉ phép hàng năm trong 2 trường hợp.

Điều 114 Bộ luật Lao động 2012 quy định về việc thanh toán tiền lương những ngày chưa nghỉ phép năm. Theo đó, người lao động nếu không nghỉ phép năm theo quy định thì được thanh toán bằng tiền.

Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 2019 có điều chỉnh, quy định cụ thể hơn việc thanh toán tiền lương những ngày chưa nghỉ phép tại Khoản 3 Điều 113. Theo đó, chỉ có trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà người lao động chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm (tính tại thời điểm thôi việc, bị mất việc làm) thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.

Với những trường hợp khác, người lao động sẽ không được thanh toán tiền khi chưa sử dụng hết ngày nghỉ phép năm.

Khi nào người lao động được thanh toán tiền phép năm? - 1

Người lao động chỉ được thanh toán tiền phép năm trong 2 trường hợp (Ảnh minh họa: Tiến Tuấn).

Để tránh thiệt thòi khi không có kế hoạch sử dụng hết ngày nghỉ phép năm trong một lần, người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để chia số ngày nghỉ phép hằng năm thành nhiều lần trong năm.

Nếu đến cuối năm, người lao động vẫn chưa dùng hết ngày nghỉ phép năm theo quy định thì có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để chuyển ngày phép sang năm sau nhưng nghỉ gộp tối đa không quá 3 năm/lần.

Khi người lao động nghỉ hằng năm mà chưa đến kỳ trả lương, người lao động có thể đề nghị người sử dụng lao động tạm ứng một khoản tiền ít nhất bằng tiền lương của những ngày nghỉ. Việc này được quy định tại Khoản 5 Điều 113 Bộ luật Lao động 2019.

Điều 113 cũng quy định rõ thời gian nghỉ phép năm của người lao động.

Theo đó, người lao động làm việc đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động.

Đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường, thời gian nghỉ phép năm là 12 ngày làm việc.

Đối với người lao động chưa thành niên, lao động là người khuyết tật, người làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thời gian nghỉ phép năm là 14 ngày làm việc.

Đối với người làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thời gian nghỉ phép năm là 16 ngày làm việc.

Người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm tính theo tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc.

Theo Điều 114, ngày nghỉ phép hằng năm của người lao động được tăng thêm theo thâm niên làm việc. Cụ thể, cứ đủ 5 năm làm việc cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm của người lao động được tăng thêm 1 ngày.

Ngoài ra, theo Khoản 6 Điều 113 Bộ luật Lao động 2019, khi nghỉ hằng năm, nếu người lao động đi bằng các phương tiện đường bộ, đường sắt, đường thủy mà số ngày đi đường (cả đi và về) trên 2 ngày thì từ ngày thứ 3 trở đi được tính thêm thời gian đi đường ngoài ngày nghỉ hằng năm (chỉ được tính cho 1 lần nghỉ trong năm).