Già làng Cơ Tu nỗ lực giữ gìn nghề đan lát
(Dân trí) - Đan lát là nghề thủ công truyền thống của đồng bào Cơ Tu, thành phố Đà Nẵng. Công việc được thực hiện chủ yếu bởi nam giới, minh chứng cho sự trưởng thành của đàn ông Cơ Tu.
Trong căn nhà 3 gian rộng khoảng 100m2, già Bhling Bloó (70 tuổi, ở thôn Bhơ Hôồng, xã Sông Kôn, thành phố Đà Nẵng) đang ngồi chẻ sợi lạt, đan mâm tre để kịp giao cho khách hàng ở xa.
Già Bloó cho biết năm 18 tuổi, ông đã biết làm nghề đan lát, sau đó ngừng công việc để tham gia hoạt động cách mạng.

Già Bling Bloó là một trong những người Cơ Tu truyền nghề cho các thế hệ đi sau (Ảnh: Ngô Linh).
Sau khi đất nước được giải phóng, ông quay về quê hương lập gia đình và tiếp tục làm nghề này để kiếm thêm thu nhập.
Mỗi năm, già Bloó làm ra hàng trăm sản phẩm mâm tre, khay trà, gùi, hộp đựng trang sức… với nhiều kích cỡ khác nhau. Nguồn nguyên liệu tre, mây được ông tự trồng hoặc khai thác trong rừng già.
Không muốn để nghề mai một, già Bloó còn lập tổ đan lát trong thôn, tập hợp 7 nghệ nhân, mở ba lớp miễn phí dạy gần 40 người, phần lớn là thanh niên. Ban đầu, nhiều người học vì tò mò, nhưng khi sản phẩm được khách đặt mua, họ bắt đầu say mê. Một số người đã đủ tay nghề để làm ra sản phẩm bán cho du khách.
Nhờ sự bền bỉ ấy, nhiều sản phẩm đan lát như mâm cơm, khay trầu… đã được công nhận sản phẩm OCOP (chương trình mỗi xã một sản phẩm thế mạnh) 3 sao. Già Bloó cũng từng mang nghề ra Hà Nội dự thi và đoạt giải Ba tại cuộc thi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ) tổ chức.

Sản phẩm đan lát của đàn ông Cơ Tu (Ảnh: Ngô Linh).
“Còn sức khỏe thì mình còn giữ nghề, truyền dạy cho thế hệ đi sau, bởi vì còn giữ nghề là còn giữ cái gốc”, già Bling Bloó nói.
Già ARất Cước, là người có uy tín tại xã Đông Giang, thành phố Đà Nẵng, cho biết nghề đan lát của người Cơ Tu không ai nhớ rõ xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết đã gắn bó với đời sống rừng núi như một phần máu thịt.
“Đàn ông Cơ Tu phải biết đan lát, đây không chỉ là kỹ năng mà còn minh chứng cho sự trưởng thành của người nam giới”, già Cước nói.
Người Cơ Tu còn có cách chế biến nguyên liệu rất riêng. Tre, mây sau khi chẻ vót được gác lên giàn bếp cho khói hun. Nhiệt và khói vừa sấy khô, vừa giữ cho sợi mây, nan tre dẻo dai, chống ẩm mốc, mối mọt. Qua thời gian, chúng ngả màu nâu cánh gián bóng đẹp, mang dấu ấn của sự bền chắc.
Nhiều gia đình còn treo cả sản phẩm đã hoàn thiện lên bếp để hun khói thêm, giúp chịu mưa nắng và có thể dùng bền hàng chục năm giữa điều kiện khắc nghiệt của đại ngàn.

Già ARất Cước miệt mài giữ gìn nghề truyền thống của người Cơ Tu (Ảnh: Ngô Linh).
Với người Cơ Tu, việc tạo ra một sản phẩm không đơn thuần là lao động thủ công, mà còn là một nghi thức gắn với ký ức, phong tục và tri thức bản địa, được truyền từ đời này sang đời khác.
Những năm gần đây, thành phố Đà Nẵng chú trọng khôi phục làng nghề gắn với du lịch cộng đồng. Các làng Cơ Tu như Bhơ Hôồng (xã Sông Kôn), Ta Lang (xã A Vương) hay Ga Lêê (xã Bến Giằng)... trở thành điểm đến hút khách. Nhờ đó, không chỉ nghề đan lát mà cả thổ cẩm, hát lý, nhạc cụ dân tộc… cũng đang dần hồi sinh.
Ông Đỗ Hữu Tùng, Chủ tịch xã Sông Kôn, cho biết nghề truyền thống đan lát của người dân Cơ Tu ở địa phương đã hình thành từ lâu đời và tồn tại đến ngày nay cũng một phần nhờ sự góp sức của các nghệ nhân như già Bríu Thiện, già Bhling Blóo và một số nghệ nhân khác.
“Bên cạnh việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm thủ công từ các làng nghề tại các hội chợ, triển lãm và trên các nền tảng số, địa phương cũng khuyến khích người dân thành lập các tổ hợp tác, các nhóm hộ cùng làm nghề để nâng cao năng suất, chất lượng của sản phẩm”, đại diện lãnh đạo địa phương nói.