Đang mang thai mà công ty phá sản thì có được hưởng chế độ thai sản?

Nguyễn Vy

(Dân trí) - Bà Hiền đang mang thai đến tháng thứ 7 thì công ty ngừng hoạt động. Bà thắc mắc làm thế nào để tiếp tục hưởng chế độ thai sản.

Bà Diệu Minh Hiền (sống tại Nam Định) nhận được thông báo công ty ngừng hoạt động khi đang mang thai đến tháng thứ 7. Công ty còn báo giảm toàn bộ bảo hiểm xã hội của người lao động.

Đang mang thai mà công ty phá sản thì có được hưởng chế độ thai sản? - 1

Người lao động vẫn được tiếp tục hưởng chế độ nghỉ thai sản nếu công ty đột ngột ngừng hoạt động (Ảnh minh họa: Hải Long).

Theo thời gian trước khi báo giảm, bà Hiền đóng đủ 6 tháng trong 12 tháng trước ngày dự kiến sinh con. Do công ty đang nợ 14 tháng đóng bảo hiểm xã hội, nên bà không được chốt sổ bảo hiểm xã hội để sau khi sinh con tự làm chế độ bảo hiểm xã hội thai sản. 

Bà Hiền hỏi, liệu bà có phải đợi công ty đóng đủ số tiền nợ thì bà mới có thể chốt sổ và tự đi làm bảo hiểm xã hội thai sản? Nếu 1 hoặc 2 năm nữa công ty mới có khả năng đóng khoản nợ hoặc thông báo phá sản thì bà có còn được hưởng chế độ thai sản nữa không?

Về vấn đề này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho hay nếu đủ điều kiện theo luật định, bà Hiền hoàn toàn có thể chủ động liên hệ cơ quan bảo hiểm xã hội, nơi công ty  đóng bảo hiểm xã hội, để được xác nhận thời gian thực đóng bảo hiểm xã hội trên sổ; sau đó tự nộp hồ sơ đề nghị hưởng chế độ thai sản.

Theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 31 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, lao động nữ sinh con được hưởng chế độ thai sản khi đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con; hoặc đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên nhưng phải nghỉ việc dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở y tế có thẩm quyền, thì chỉ cần đóng từ đủ 3 tháng trong 12 tháng trước sinh.

Đặc biệt, Khoản 4 Điều 31 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định người lao động đủ điều kiện trên nhưng đã chấm dứt hợp đồng lao động trước khi sinh vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định pháp luật.

Theo hướng dẫn tại Công văn số 1025/LĐTBXH-bảo hiểm xã hội ngày 23/3/2023 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) và Công văn số 1880/BHXH-CSXH ngày 21/6/2023 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, người lao động vẫn có thể được giải quyết chế độ thai sản nếu doanh nghiệp thuộc một trong các trường hợp đang làm thủ tục phá sản; đã có quyết định phá sản của tòa án; không còn hoạt động tại địa chỉ đăng ký; không có người đại diện theo pháp luật.

Trong các trường hợp này, thời gian thực đóng bảo hiểm xã hội của người lao động đến thời điểm doanh nghiệp còn đóng sẽ được xác nhận trên sổ bảo hiểm xã hội để làm căn cứ giải quyết chế độ.

Nếu sau này doanh nghiệp hoặc nguồn tài chính khác đóng bù phần bảo hiểm xã hội còn thiếu và làm thay đổi mức trợ cấp, cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ điều chỉnh mức hưởng và chi trả bổ sung theo quy định.

Ngoài ra, Khoản 1 Điều 86 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định, hằng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng 3% trên quỹ tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của người lao động vào quỹ ốm đau, thai sản. Mức đóng này nhằm đảm bảo chi trả kịp thời các chế độ liên quan, trong đó có chế độ thai sản cho lao động nữ.

Đồng thời, Nghị định số 115/2015/NĐ-CP của Chính phủ cũng nêu rõ rằng người sử dụng lao động phải đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, kể cả tiền lãi chậm đóng nếu có, cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ, kể cả khi họ đã chấm dứt hợp đồng lao động.