Cán bộ không chuyên trách ở xã, thôn đóng bảo hiểm xã hội từ 1/7 ra sao?
(Dân trí) - Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố là mức phụ cấp hằng tháng.
Người không chuyên trách đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
Luật Bảo hiểm xã hội quy định, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố là nhóm tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc từ 1/7.
Nghị định 158 có hiệu lực từ 1/7 quy định tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Theo đó, nhóm người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố có tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là mức phụ cấp hằng tháng của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố.
Trường hợp mức phụ cấp hằng tháng thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất thì tiền lương làm căn cứ đóng bắt buộc bằng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Theo Luật Bảo hiểm xã hội, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất bằng mức tham chiếu và cao nhất bằng 20 lần mức tham chiếu tại thời điểm đóng.
Khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu bằng mức lương cơ sở. Như vậy, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội thấp nhất hiện nay là 2,34 triệu đồng và cao nhất là 46,8 triệu đồng.
Về mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, luật quy định, 8% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất do cán bộ không chuyên trách cấp xã đóng.
Ngoài ra, 3% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản và 14% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất do người sử dụng lao động đóng.
Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
Ngoài ra, Nghị định 158 cũng quy định cụ thể về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho các nhóm.
Cụ thể, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là tiền lương tháng, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.
Trong đó, mức lương theo công việc hoặc chức danh tính theo thời gian (theo tháng) của công việc hoặc chức danh theo thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Lao động được thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Bên cạnh đó, các khoản phụ cấp lương để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ, được thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không bao gồm khoản phụ cấp lương phụ thuộc hoặc biến động theo năng suất lao động, quá trình làm việc và chất lượng thực hiện công việc của người lao động.
Các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương theo quy định, được thỏa thuận trong hợp đồng lao động và trả thường xuyên, ổn định trong mỗi kỳ trả lương; không bao gồm các khoản bổ sung khác phụ thuộc hoặc biến động theo năng suất lao động, quá trình làm việc và chất lượng thực hiện công việc của người lao động.
Nghị định nêu rõ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với đối tượng quy định tại điểm 1, khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội là tiền lương tính trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Trong trường hợp lao động thỏa thuận lương theo giờ thì tiền lương tính trong tháng bằng tiền lương theo giờ nhân với số giờ làm việc trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Ngoài ra, hợp đồng lao động thỏa thuận lương theo ngày thì tiền lương tính trong tháng bằng tiền lương theo ngày nhân với số ngày làm việc trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Trường hợp trong hợp đồng lao động thỏa thuận lương theo tuần thì tiền lương tính trong tháng bằng tiền lương theo tuần nhân với số tuần làm việc trong tháng theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.