7,5 triệu shipper, youtuber đứng ngoài lưới an sinh

Nguyễn Vy

(Dân trí) - Theo Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Nội vụ, những lao động như tài xế xe ôm công nghệ, người giao hàng, người làm nội sung trên mạng đang làm việc trong môi trường đầy rủi ro, hạn chế tiếp cận an sinh.

Lực lượng lao động tự do tăng nhanh

Tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Bộ luật lao động năm 2019 do Bộ Nội vụ tổ chức mới đây, TS Mai Đức Thiện, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Nội vụ), nhận định trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra sâu rộng trên toàn cầu, sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây... đang tạo ra những thay đổi mang tính cấu trúc đối với thị trường lao động.

7,5 triệu shipper, youtuber đứng ngoài lưới an sinh - 1

TS Mai Đức Thiện, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Nội vụ) (Ảnh: Nguyễn Vy).

Không chỉ thay đổi cách thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, công nghệ mới còn định hình lại phương thức làm việc, mở rộng không gian tìm kiếm việc làm vượt khỏi biên giới địa lý. Việt Nam với hơn 50 triệu người đang tham gia lực lượng lao động chịu tác động trực tiếp từ làn sóng này.

TS Mai Đức Thiện nêu một trong những vấn đề quan trọng cần quan tâm là quyền lợi của người lao động làm việc tự do hay còn gọi là lao động nền tảng. Đây là lực lượng không tham gia quan hệ lao động truyền thống mà làm việc linh hoạt, nhận việc theo đơn hàng, nhiệm vụ, dự án, thông qua sự kết nối công việc với các nền tảng số, chẳng hạn như tài xế xe ôm công nghệ, người sáng tạo nội dung số…

Ước tính Việt Nam có khoảng 7,5 triệu người làm việc trên nền tảng số, tương đương gần 14% lực lượng lao động cả nước. Con số này được dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh trong 5-10 năm tới.

“Lao động nền tảng đang đối mặt với nhiều rủi ro. Thu nhập của họ bấp bênh vì phụ thuộc hầu hết vào đơn hàng và thuật toán. Họ cũng không thể kiểm soát giờ nghỉ ngơi hợp lý. Thời gian làm việc bị kéo dài, có người còn phải làm xuyên đêm.

Hơn hết, những lao động này còn bị hạn chế trong việc tiếp cận chế độ an sinh xã hội. Họ không thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp”, TS Mai Đức Thiện chia sẻ.

Vì không được xác lập quan hệ lao động nên họ thiếu cơ chế về đối thoại, thương lượng tập thể. Nhóm lao động này cũng không được đảm bảo an toàn vệ sinh lao động bởi chưa có tiêu chuẩn, quy định bảo hộ chi tiết.

Cơ chế bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động 

Bà Lượng Thị Tới, Phó Giám đốc Sở Nội vụ TPHCM, cho hay khoảng trống pháp lý không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của lao động tự do, gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát và hỗ trợ.

Thực tế trên địa bàn TPHCM, đội ngũ tài xế xe công nghệ không được thụ hưởng trọn vẹn các quyền lợi về an sinh xã hội, nhưng lại là đối tượng đối mặt với nhiều rủi ro tai nạn giao thông, rủi ro pháp lý trong quá trình giao và nhận hàng, áp lực hệ thống đánh giá, thuật toán của nền tảng.

7,5 triệu shipper, youtuber đứng ngoài lưới an sinh - 2

Bà Lượng Thị Tới, Phó Giám đốc Sở Nội vụ TPHCM (Ảnh: Nguyễn Vy).

Về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở Nội vụ TPHCM đề xuất tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung pháp lý, sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động để có thể bao quát, điều chỉnh hầu hết các loại hình lao động. Bên cạnh đó, bà cho rằng cần phối hợp với các nền tảng số để xây dựng cơ chế hỗ trợ lao động đặc thù sao cho phù hợp.

TS Mai Đức Thiện nhận định pháp luật lao động hiện hành chưa theo kịp sự vận động của thị trường lao động số, đặc biệt Bộ luật Lao động 2019 hiện chưa điều chỉnh trực tiếp quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhóm lao động này.

Mặt sáng là Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và Luật công đoàn 2024 đã cho phép mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người có việc làm, thu nhập ổn định, kể cả không có hợp đồng lao động, đồng thời khẳng định người lao động không có quan hệ lao động vẫn có quyền gia nhập công đoàn; bổ sung mô hình nghiệp đoàn cơ sở cho nhóm lao động phi chính thức, lao động nền tảng.

“Tuy nhiên, để triển khai thực tế các quyền này, nền tảng pháp lý trong Bộ luật Lao động cần được hoàn thiện để xác định rõ đối tượng, quyền, nghĩa vụ của người lao động và của doanh nghiệp nền tảng.

Câu hỏi cần được giải đáp là chúng ta có nên mở rộng phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Lao động để bao quát nhóm lao động này không? Nếu có, nên điều chỉnh theo mô hình nào để hài hòa giữa phát triển kinh tế số và bảo vệ quyền lợi của người lao động? Việc nhận diện đúng, điều chỉnh phù hợp sẽ góp phần đảm bảo an sinh, thúc đẩy thị trường lao động hiện đại, cạnh tranh và bền vững trong thời kỳ chuyển đổi số”, TS Mai Đức Thiện khẳng định.