Việt Nam đặt mục tiêu gì cho tương lai ngành công nghiệp hỗ trợ?

(Dân trí) - Việt Nam muốn phát triển ngành công nghiệp bền vững thì không có con đường nào khác, phải tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, bởi nó chính là cơ sở để phát triển, tăng trưởng một ngành công nghiệp bền vững.

Muốn phát triển công nghiệp thì không có con đường nào khác việc phải tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Muốn phát triển công nghiệp thì không có con đường nào khác việc phải tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg về Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025, tạo tiền đề và định hướng phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam.

Theo quyết định của Thủ tướng, Chương trình sẽ bao gồm các hoạt động kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất.

Đồng thời, hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; Hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu và xây dựng và vận hành trang thông tin về công nghiệp hỗ trợ.

Trong đó, mục tiêu chung đến năm 2020, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng khoảng 45% nhu cầu cho sản xuất nội địa. Đến năm 2025, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng được 65% nhu cầu cho sản xuất nội địa.

Còn giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc ba lĩnh vực chủ yếu. Trong đó, đối với lĩnh vực linh kiện phụ tùng sẽ tập trung phát triển linh kiện phụ tùng kim loại, linh kiện phụ tùng nhựa - cao su và linh kiện phụ tùng điện - điện tử, đáp ứng mục tiêu đến năm 2020 cung ứng được 35%, đến 2025 cung ứng 55% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển.

Đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may - da giày, sẽ tập trung phát triển nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt may - da giày, đáp ứng mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ cung cấp trong nước của ngành công nghiệp dệt may đạt 65%, ngành da giày đạt 75-80%.

Đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao, sẽ tập trung phát triển sản xuất vật liệu, thiết bị hỗ trợ chuyên dụng, phần mềm và dịch vụ phục vụ các ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển hệ thống doanh nghiệp cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dụng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong công nghiệp công nghệ cao...

Theo đánh giá của Vụ Công Nghiệp nặng Bộ Công Thương, khi Chương trình đi vào triển khai thực hiện, cùng với chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển công nghệp phụ trợ, Việt Nam sẽ từng bước đạt được các mục tiêu đề ra về phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành.

Trong đó, đối với Công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô đặt mục tiêu giai đoạn đến năm 2020, cơ bản hình thành ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất ô tô, phấn đấu đáp ứng ~ 35% (tính theo giá trị) nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp ô tô trong nước, giai đoạn 2026 - 2035 đáp ứng trên 65% nhu cầu trong nước. Đối với ngành dệt may - da giày đặt mục tiêu đến năm 2020 đạt khoảng 40% nhu cầu vải dệt thoi; Sản xuất trong nước từ 40 - 100% phụ tùng cơ khí dệt may; đáp ứng 80% nhu cầu nội địa về các sản phẩm xơ, sợi tổng hợp và tiến tới xuất khẩu từ sau năm 2020.

Theo các chuyên gia kinh tế, nhiều lĩnh vực công nghiệp quan trọng của Việt Nam hoặc chưa được coi trọng, hoặc đầu tư dàn trải, manh mún, tự phát dẫn đến giá trị gia tăng thấp. Việt Nam muốn phát triển ngành công nghiệp bền vững thì không có con đường nào khác, phải tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, bởi nó chính là cơ sở để phát triển, tăng trưởng một ngành công nghiệp bền vững.

Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã tiếp cận khá thuận lợi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam đang bỏ lỡ một cơ hội lớn là trong khi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài chảy vào mạnh thì khả năng hấp thụ, tiếp thu chuyển giao công nghệ từ khối doanh nghiệp FDI lại hạn chế. Lý do là Việt Nam thiếu vắng hẳn một nền công nghiệp hỗ trợ. Hay nói cách khác là có quá ít doanh nghiệp Việt Nam làm công nghiệp hỗ trợ, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì.

Hiện tại, các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các công ty nước ngoài chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước khá lớn. Doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ và vừa nên khả năng đáp ứng về yêu cầu chất lượng kém. Các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành công nghiệp phụ trợ hiện vẫn duy trì phong cách làm ăn tự cung tự cấp. Thực tế, Việt Nam có rất ít thông tin liên kết thầu phụ công nghiệp.

Vì vậy, nhiều công ty không tìm kiếm được thông tin về khả năng giao thầu của doanh nghiệp lớn, nhất là doanh nghiệp nước ngoài. Ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng ít thông tin về doanh nghiệp Việt Nam. Thêm nữa, các doanh nghiệp nước ngoài thực sự ngần ngại khi phải ký kết hợp đồng thương mại với các nhà thầu phụ Việt Nam do môi trường pháp lý chưa thực sự thuận lợi. Chưa kể, họ luôn canh cánh nỗi lo sợ khi bị phá vỡ hợp đồng.

Các nhà cung ứng Việt Nam hiện hiểu biết còn hạn chế về khía cạnh pháp lý của hợp đồng. Bên cạnh đó, việc liên kết doanh nghiệp có ý nghĩa về mặt nâng cao khả năng cạnh tranh trong nội bộ ngành, sử dụng lợi thế cạnh tranh của khu vực, khai thác chuỗi giá trị để tạo nên sản phẩm mang tính cạnh tranh cao ở Việt Nam còn hạn chế.

Phương Dung