Sau EVFTA, nông - thủy sản Việt đứng trước cơ hội thị trường mới: UKVFTA
(Dân trí) - Dù cơ bản kế thừa các cam kết và lộ trình cắt giảm, xóa bỏ thuế quan từ EVFTA, nhưng UKVFTA vẫn có những điểm mới, mở ra thị trường lớn hơn cho nhiều mặt hàng nông thủy sản thế mạnh của Việt Nam.
Cuối tuần qua, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Bộ Thương mại quốc tế Vương quốc Anh Liz Truss đã ký biên bản ghi nhớ kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Nếu diễn ra đúng lộ trình, Hiệp định sẽ có hiệu lực vào tháng 1/2021.
Sự kiện này diễn ra vào thời điểm khá "vừa vặn", khi mà chỉ còn hơn 2 tuần nữa là thời gian chuyển tiếp của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) đối với Anh sẽ kết thúc (hết tháng 12/2020).
Tất nhiên, để có được thời điểm hợp lý như vậy, Việt Nam và Anh đã tiến hành thảo luận rất sớm về UKVFTA từ tháng 8/2018 nhằm đảm bảo thương mại song phương không bị gián đoạn sau khi giai đoạn chuyển tiếp kết thúc. Bộ Công Thương cho biết, hiện hai bên đang tích cực phối hợp để tiếp tục chính thức ký kết, đưa Hiệp định vào thực thi ngay đầu năm sau.
Khi có hiệu lực, UKVFTA được kỳ vọng sẽ tiếp nối động lực thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư của Việt Nam và Anh trong những năm tới, trên cơ sở kế thừa các cam kết cũng như lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan của Việt Nam và Anh trong EVFTA.
Theo đó, sau 6 năm kể từ khi UKVFTA có hiệu lực, Anh sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Ở chiều ngược lại, ta cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định UKVFTA có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế (chiếm 64,5% kim ngạch nhập khẩu). Tiếp đó, sau 6 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ Anh được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 9 năm, mức xóa bỏ thuế quan là khoảng 98,3% số dòng thuế (chiếm 99,8% kim ngạch nhập khẩu).
Đáng chú ý, đối với các dòng thuế mà EU đã cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan (TRQ) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%, Anh dành cho Việt Nam lượng hạn ngạch thêm hơn 26.200 tấn đối với các mặt hàng này. Ngoài ra, Anh còn cam kết sẽ rà soát nâng lượng TRQ đối với mặt hàng gạo của Việt Nam sau 3 năm kể từ ngày UKVFTA có hiệu lực.
Như vậy, có thể nói các cam kết thương mại hàng hóa của Anh đã được kế thừa toàn bộ và đem lại lợi ích bổ sung về lượng TRQ đối với 14 mặt hàng được hưởng ưu đãi. Lợi ích này đặc biệt có ý nghĩa khi Anh là một trong những thị trường nhập khẩu tiềm năng các mặt hàng ta được hưởng ưu đãi TRQ (ví dụ như gạo, tinh bột sắn, surimi).
Ngoài ra, Bộ Công Thương nhận định thủy sản cũng sẽ là ngành hưởng lợi lớn từ UKVFTA.
Năm 2019, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Anh đạt 298,2 triệu USD, chiếm 6,7% tổng kim ngạch nhập khẩu ngành hàng này của Anh. Với Hiệp định UKVFTA, thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu (tươi, đông lạnh, ướp lạnh) nhập khẩu vào Anh được giảm từ mức thuế cơ bản 10-20% xuống 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Theo các chuyên gia kinh tế, các nhóm hàng có lợi thế sớm nhất trong nhóm thủy, hải sản là tôm và một số loại cá (cá tra). Kéo theo đó, những ngành chế biến tôm và cá tra sẽ có cơ hội thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu cũng như có triển vọng thu hút đầu tư để tận dụng các cam kết này.
Cùng với đó, UKVFTA khi có hiệu lực sẽ xóa bỏ ngay 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các chế phẩm từ rau quả, trong đó có nhiều sản phẩm là thế mạnh của Việt Nam như vải, nhãn, chôm chôm, thanh long, dứa, dưa…
Với nhu cầu nhập khẩu rau quả lớn cũng như thị hiếu tiêu dùng của người dân Anh đối với các loại sản phẩm hoa quả nhiệt đới, trong thời gian tới, ngành xuất khẩu rau củ quả của Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Anh một cách thuận lợi hơn và thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Dù vậy, cơ hội từ UKVFTA cho nông - thủy sản Việt Nam không là dễ dàng. Một trong những thách thức lớn đặt ra là rào cản kỹ thuật chặt chẽ đối với hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Anh.
Đối với nông sản, Bộ Công Thương nhận định, dù UKVFTA kế thừa những ưu đãi với những quy định SPS linh hoạt trong EVFTA, nhưng đa số ngành hàng nông sản của nước ta như chè, rau quả... vẫn vấp phải những hạn chế do thiếu tính đồng nhất trong từng lô hàng, công tác thu hoạch bảo quản chưa tốt nên chất lượng còn hạn chế.
Chưa kể, các cam kết "phi truyền thống" về lĩnh vực lao động, môi trường trong UKVFTA cũng có thể dẫn tới rủi ro cho toàn bộ ngành sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam nếu có một số doanh nghiệp, đơn vị không làm đúng quy định pháp luật, đơn cử như với hoạt động đánh bắt thủy sản.
Do đó, Bộ Công Thương cho rằng các doanh nghiệp sẽ cần đặc biệt chú ý tìm hiểu kỹ các cam kết cũng như quy định phía Anh đưa ra đối với hàng hóa nhập khẩu, để có thể tận dụng tối đa cơ hội mà UKVFTA mang lại. Vấn đề tái cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm nông - thủy sản đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe tại thị trường Anh sẽ cần được tập trung đẩy mạnh trong thời gian tới.