Cái mới và sự 'chống đối'!
Cải cách thể chế kinh tế, cũng đòi hỏi nền tảng lý luận vững chãi, đầy minh triết, mang hơi thở sức sống của những tư tưởng và giá trị văn minh của thời đại, chứ không thể là những câu chữ xơ cứng, thể hiện tư duy áp đặt, duy ý chí cuả một thời … xa vắng.
Như một quy luật tất yếu, xã hội nào cũng luôn có sự vận động, mà sự kích thích phát triển chính là những cái mới nảy sinh giữa muôn vàn cái cũ. Cho dù khởi đầu nó nhỏ nhoi yếu ớt. Và cũng như một quy luật tất yếu, đối lập với cái mới, là cái cũ luôn có sức ì, trì trệ chống lại cái mới tươi non xuân sắc.
Sự chống đối, đối kháng đó, tiếc thay nhiều khi chính là cái già cỗi, xơ cứng trong tự thân tư duy, nhận thức con người.
Lý thuyết màu xám có tươi non?
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Vào thời điểm ông Tony Blair cựu Thủ tướng nước Anh sang thăm VN những ngày gần đây, trao đổi và chia sẻ những vấn đề quan trọng của sự phát triển một quốc gia - cải cách thể chế kinh tế - thì trên mạng truyền thông, cũng liên tiếp thông tin về cuộc tọa đàm và gửi đi thông điệp cho XH, hứa hẹn “nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Hơn 30 năm đổi mới, từ cơ chế quản lý bao cấp sang kinh tế thị trường “có định hướng XHCN”, không thể phủ nhận diện mạo kinh tế đất nước, cùng chất lượng cuộc sống vật chất của người dân Việt có những thay đổi mạnh mẽ, đáng kể. Từ ăn no - mặc ấm, sang ăn ngon - mặc đẹp. Rồi XH giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Cho dù vẫn luôn có sự phân hóa giàu- nghèo sâu sắc, vẫn luôn có khoảng cách phát triển giữa đô thị- nông thôn- miền núi; thì phải nói rằng mỗi thay đổi trong đời sống, dù đã đạt hoặc chưa, đều đánh dấu từng nấc thang của sự phát triển thời cuộc mới.
Thực tiễn đó lại đặt trong bối cảnh, kinh tế thị trường nước Việt nảy nở vào lúc hệ thống XHCN khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh, lý luận về kinh tế thị trường của các nhà nghiên cứu, lý luận khai mở của nước Việt còn rất mỏng, gắn với đặc thù - cả nền tảng triết học lẫn lý luận luôn … bấy bớt. Sự phát triển thực tiễn, dù xanh tươi đến mấy cũng vẫn là “vừa mần vừa run”. Thậm chí ở mảng doanh nghiệp Nhà nước, xương sống nền kinh tế, cơ chế quản lý vẫn nặng tính bao cấp, xin - cho. Khuyết tật là không tránh khỏi.
Sự hội nhập của đất nước với thế giới hiện đại buộc nước Việt phải hoàn thiện cả lý luận lẫn thể chế kinh tế của mình. Con đường cải cách thể chế kinh tế là con đường duy nhất đúng, để đi tới mục tiêu dân giàu nước mạnh.
Tuy nhiên xây dựng nền tảng lý luận thế nào để cả XH tâm phục, khẩu phục là thách thức cực lớn của đời sống đầy những biến động, bởi có những cái hôm qua hay nay đã lại dở rồi.
Cũng tại một phiên họp về vấn đề kinh tế thị trường, người đứng đầu Chính phủ đã thẳng thắn: Tất cả phải đi vào kinh tế thị trường và đã là thị trường phải thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, trước hết là giá cả, phân bổ nguồn lực. Và đã thị trường thì phải công khai, minh bạch, bình đẳng.
Làm sao không phải là thách thức, khi mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật? (TTXVN, ngày 28/02).
Vậy thế nào là chủ đạo, và thế nào là bình đẳng? Liệu có thể tồn tại một nền kinh tế với môi trường cạnh tranh lành mạnh, mà vừa chủ đạo, lại vừa… bình đẳng?
Làm sao không phải là thách thức, nếu vẫn luôn có nhiều băn khoăn ngay chính những người có trách nhiệm: Không biết đến hết thế kỷ này đã có CNXH hoàn thiện ở VN hay chưa?
Làm sao không phải là thách thức, ngay chính Bộ trưởng KH& ĐT đã từng day dứt, lật đi lật lại một câu hỏi không ít người từng đặt: Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình(XHCN) đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà tìm?
Trước đó, năm 2013, cũng ông nhận xét: Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào? Đâu phải nó là một mô hình kinh tế thị trường riêng biệt so với thế giới. Bởi “kinh tế thị trường” là cái tinh hoa của nhân loại rồi, còn “định hướng XHCN ” là nói về vai trò của Nhà nước.
Từng ấy những vấn đề của kinh tế thị trường nước Việt còn quá non trẻ và nhiều khiếm khuyết, giữa bao thành tựu của nhân loại, có nhiều quốc gia kinh tế thị trường đã trải qua 5-6 thế kỷ, với những giá trị kinh tế- văn hóa bất biến, vững chãi và được sàng lọc bởi những thăng trầm dâu bể. Điều đó, càng đòi hỏi phải có lý luận, bởi thực tiễn phát triển nếu không có lý luận, tư tưởng làm nền tảng, cũng sẽ giống như ngụ ngôn xa xưa Đẽo cày giữa đường
Rõ ràng, các nhà lý luận VN cần đưa ra được lý thuyết về mô hình kinh tế thị trường của VN tiệm cận với những giá trị văn minh nhân loại, phù hợp quy luật phát triển của thời đại, chứ không thể là sự minh họa, “ăn theo” các văn bản đến từng câu chữ. Cũng không thể đi tìm sự khác biệt- đặc thù đến mức ngụy biện, đồng nghĩa với tự loại mình ra khỏi cuộc chơi của nhân loại
Đó cũng không thuần túy là chuyện khái niệm, mà chính là sự giải quyết về… niềm tin.
Mặt khác, sự cải cách thể chế kinh tế, không chỉ đòi hỏi hoàn thiện lý luận, mà còn cần có con người, trong đó có đội ngũ xây dựng các chính sách phát triển đất nước. Con người vốn là nhân tố đóng vai trò quyết định, có sức mạnh lớn đến mức, Bộ trưởng KH& ĐT từng cho rằng 'Đổi mới không cần bao tỉ đô la mà cần con người'
Có điều, câu trả lời từ thực tiễn đời sống hiện tại lại khiến tâm lý người Việt bất an.
Bạn đọc sẽ nghĩ gì khi đọc thông tin, có tới 30% công chức làm việc kiểu có cô thì chợ cũng đông/ cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui?
Sẽ nghĩ gì khi đọc thông tin, chỉ trong vòng 10 tháng của năm 2014, có hơn 9.000 văn bản pháp luật có dấu hiệu vi hiến, trái luật được các bộ ngành, cơ quan địa phương kiểm tra phát hiện. Và đâu chỉ có 10 tháng của năm 2014? Còn những năm tháng trước đây?
Văn bản pháp luật là cơ sở để người dân, các cơ sở kinh doanh thực hiện theo những quy định của hiến pháp, pháp luật. Nhưng bản thân hàng nghìn văn bản có dấu hiệu vi hiến, trái luật, ốc không mang nổi mình ốc, lại đòi mang cọc cho rêu, thì người dân, các cơ sở sản xuất, kinh doanh sẽ được gì? Hay hàng nghìn văn bản trái luật đó chỉ gây thiệt hại cho lợi ích của người dân, của cộng đồng.
Vì sao? Vì kém cỏi năng lực, hay còn vì những tính toán kiểu thợ may ăn vải, thợ giấy ăn hồ?
Và hiện tượng mỗi tháng có gần 1000 văn bản vi hiến được ban hành liệu có nói được gì về sự quan liêu, tắc trách và non kém ngay trong nghiệp vụ tư pháp? Từ chất lượng nguồn đào tạo, tuyển dụng công chức, bổ nhiệm, nâng bậc, cho đến việc kiểm duyệt của cơ quan chức năng trước khi ban hành?
Chính vì thế, đã có ý kiến cần kỷ luật những quan chức có trách nhiệm nếu để “lọt” những văn bản vi hiến, trái pháp luật.
Quan trọng hơn, cải cách thể chế kinh tế không chỉ có xây dựng và hoàn thiện lý luận, tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh và quản trị các doanh nghiệp. Cùng lúc bản thân ngành GD- ngành hành chính, dịch vụ công, cũng phải được cải cách mạnh mẽ. Vì đó là ngành tạo ra đội ngũ tiếp nhận cải cách thể chế kinh tế. Thành hay bại một phần rất lớn là ở đội ngũ này.
Đó là tính tương hỗ, tương đồng của bước phát triển XH nước Việt thời hội nhập.
Chống đối – vì sao?
Đơn giản- vì đụng chạm lợi ích
Tại hội thảo “Vai trò kinh tế mới của DNNN” do Bộ KH& ĐT tổ chức, ông cựu Thủ tướng Anh Tony Blair có một nhận xét về vai trò nhà nước, thị trường- tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn kinh tế thị trường nhiều quốc gia, trong đó có nước Anh, mà ông từng làm Thủ tướng:
Nhà nước có tầm quan trọng chiến lược trong một số lĩnh vực, cần có để đảm bảo phúc lợi xã hội, lợi ích quốc gia, đặt ra khuôn khổ cho nền kinh tế. Nhưng nhà nước không giỏi điều hành các tổ chức kinh doanh, và không giỏi trong đổi mới, sáng tạo.
Thị trường thì ngược lại. Nó có những vấn đề, có thể bị khủng hoảng, nhưng thị trường lại giỏi trong vận hành và quản lý DN, và trong đổi mới, sáng tạo.
Quan trọng hơn, ông cựu TT nước Anh chia sẻ một hiện tượng phổ biến: Mọi cuộc cải cách đều khó khăn, càng gặp kháng cự, càng cho thấy cuộc cải cách đó là cải cách thực sự.
Đó là quy luật thường tình của đời sống nhân loại, của mọi quốc gia, mỗi quốc gia, không riêng gì ở nước Việt.
Bởi mỗi tổ chức có đặc thù và chức năng riêng của nó. Sự nhầm lẫn “vườn rau” sẽ khiến cho sự phát triển thành luẩn quẩn. Mặt khác, cái mới- cải cách bao giờ cũng đụng chạm tới cái cũ, đương nhiên gặp phải sự ngáng trở của cái cũ, đó là lợi ích, thói trì trệ, ngại thay đổi, tâm lý cố hữu và dễ thỏa mãn của tư duy “văn minh lúa nước”. Chính đó mà tái cơ cấu kinh tế của nước Việt, dù mục đích đúng đắn, bỗng giống như người đẹp… ế chồng.
Cải cách không chỉ đòi hỏi có tư tưởng, có lý luận, có đội ngũ, mà nó còn đòi hỏi sự hiểu biết và nắm vững bản chất các mô hình kinh tế. Chính sự mù mờ thiếu lý luận, mà trong thực tiễn việc thực hiện cải cách nhiều khi trở thành hình thức,bình mới rượu cũ. Đây cũng là thực tế được Bộ trưởng KH và ĐT chỉ ra ngay tại hội thảo:
Trong 20 năm qua cải cách DNNN về số lượng là thành công nhưng tỷ trọng CPH trong DNNN còn thấp. Có những tập đoàn đã CPH nhưng 90% vốn vẫn của… nhà nước. Nếu coi CPH như vậy là xong thì các DN này có gì thay đổi đâu, vẫn nhân sự, quản trị cũ, nhà nước từ đầu đến chân… Trong khi, CPH là phải thay đổi quản trị dân chủ, có kiểm soát hơn. Rõ ràng hiệu quả CPH phải xem lại. Chưa kể, mới 5-10% đã được coi là CPH xong, được hoạt động như mô hình doanh nghiệp cổ phần, sẽ tạo kẽ hở trong quản lý, quyền cao lên mà kiểm soát thấp đi, rất nguy hiểm cho nền kinh tế.
Trước đó, tháng 7/2014, khi sang thăm và làm việc với VN, ông Jim Yong Kim, Chủ tịch WB đã dự đoán với cái nhìn của một chyên gia kinh tế tầm cỡ: “Khu vực tư nhân là chìa khóa tương lai tăng trưởng kinh tế VN”.
Nhưng có lẽ đó cũng vẫn là thì tương lai, còn trong thì hiện tại, đến thời điểm này, kinh tế tư nhân của nước Việt vẫn… bên trời lận đận.
Báo VietNamNet, ngày 7/3 cho biết, tuy tỷ trọng đầu tư của khu vực DNNN chiếm trên 40% tổng số vốn đầu tư, nhưng tỷ trọng của khu vực này trong GDP chỉ chiếm 32%. Trong khi đó, khu vực kinh tế ngoài nhà nước tuy tỷ trọng vốn đầu tư chỉ khoảng 38% GDP, nhưng tỷ trọng giá trị gia tăng trong GDP lên đến 49%, riêng tỷ trọng đóng góp GDP của khu vực kinh tế cá thể chiếm đến 33%. Một thực tế buồn, khu vực kinh tế này tạo ra nhiều việc làm nhất, nhưng lại là khu vực kinh tế khó tiếp cận nguồn vốn nhất, và bị nhiều chèn ép. Trong khi khu vực kinh tế FDI và DNNN lại được hưởng nhiều chính sách ưu đãi.
Chính vì vậy, mà bản chất nền kinh tế Việt Nam không chỉ là nền kinh tế gia công mà còn rất manh mún. Bởi không một nước nào có thể phát triển nếu nền kinh tế dựa vào sản xuất gia công và cá thể nhỏ lẻ.
Cũng theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù đóng góp đáng kể cho XH, nhưng khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể cũng vẫn mang đầy đủ nhược điểm của tư duy và cung cách kinh doanh “mì ăn liền”, ít có nhân tố sáng tạo, cạnh tranh. Đến thời điểm này, khu vực DN tư nhân cũng bắt đầu có xu hướng teo nhỏ…
Như vậy, nếu nhìn vào năng lực sản xuất kinh doanh của các khu vực kinh tế có thể thấy một sự bất bình đẳng kéo dài và không thể nói là vững mạnh:
Khu vực DNNN được đầu tư lớn, ưu đãi với nhiều chính sách đáng kể, nhưng đóng góp cho XH không tương xứng với sự đầu tư hệt kiểu y phục… không xứng kỳ đức.
Khu vực CPH các DNNN, đã tiến hành cải cách, tái cơ cấu kinh tế, vẫn không thật hiệu quả. Đến thời điểm này, còn hơn 430 DNNN phải CPH, thì lại làm vội vã, sợ trách nhiệm. Hai trạng thái trái ngược chỉ cho thấy động cơ vụ lợi.
Khu vực DN tư nhân, kinh tế cá thể trong một môi trường kinh doanh thiếu bình đẳng, cho dù nỗ lực, tài năng, cũng khó có thể khẳng định được chính mình.
Rõ ràng, cải cách thể chế kinh tế là giải pháp tất yếu. Việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực, không chỉ kích thích sức sáng tạo, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, mà còn là một giải pháp kinh tế hữu hiệu giảm bớt tệ nạn tham nhũng tiền chùa, do bản chất của DNNN vẫn là cơ chế ban phát xin- cho, mảnh đất mỡ màu của sâu mọt và lợi ích nhóm.
Nhưng cải cách thể chế kinh tế, cũng đòi hỏi nền tảng lý luận vững chãi, đầy minh triết, mang hơi thở sức sống của những tư tưởng và giá trị văn minh của thời đại, chứ không thể là những câu chữ xơ cứng, thể hiện tư duy áp đặt, duy ý chí của một thời … xa vắng.
Theo Kỳ Duyên
Tuần Việt Nam