Những nghiên cứu về y dược xứng tầm quốc tế của các nhà khoa học Việt (phần 2)

(Dân trí) - Kết quả nghiên cứu đề tài của các nhà khoa học đã làm tiền đề tạo nên các quy trình điều trị bệnh hay sản xuất vắc xin ở trình độ đẳng cấp quốc tế. Không chỉ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng mà các kết quả nghiên cứu cũng giúp cho Việt Nam làm chủ công nghệ, tiết kiệm chi phí trong điều trị bệnh …

Quy trình phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý tuyến giáp

Xuất xứ từ đề tài KHCN cấp NN “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý tuyến giáp”, mã số KC.10.08/11-15.

Trước đây, phẫu thuật nội soi tuyến giáp chưa được thực hiện rộng rãi do tuyến giáp nằm ở vùng cổ trước chứ không nằm ở trong các khoang tự nhiên như khoang bụng, ngực. Để thực hiện các thao tác trong quá trình mổ cần phải tự tạo khoang làm việc. Mặt khác, tuyến giáp được bao bọc xung quanh bởi các bó mạch lớn, các cấu trúc cơ quan quan trọng như khí quản, thực quản. Muốn thực hiện được phẫu thuật nội soi tuyến giáp, phẫu thuật viên không những phải có kinh nghiệm trong phẫu thuật mở tuyến giáp mà còn cần phải có kinh nghiệm trong phẫu thuật nội soi chung.


Các phẫu thuật viên của BV Nội tiết Trung ương mổ trình diễn kỹ thuật nội soi điều trị các bệnh lý tuyến giáp

Các phẫu thuật viên của BV Nội tiết Trung ương mổ trình diễn kỹ thuật nội soi điều trị các bệnh lý tuyến giáp

Vì vậy Bệnh viện Nội tiết trung ương đã thực hiện đề tài cấp nhà nước: Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh tuyến giáp.

Kết quả, đề tài đã xây dựng được chỉ định và quy trình phẫu thuật nội soi điều trị bướu giáp nhân lành tính; xây dựng chỉ định và quy trình phẫu thuật nội soi điều trị bệnh Basedow; xây dựng chỉ định và quy trình phẫu thuật nội soi điều trị ung thư tuyến giáp. Kỹ thuật đã được thực hiện thành công trên 150 bệnh nhân. Kỹ thuật này đã được 15 giáo sư và hơn 200 phẫu thuật viên các nước Đông Nam Á đến học tập sau khi nhóm nghiên cứu đã thực hiện các ca phẫu thuật trình diễn tại các trường đại học của Thái Lan, Philippin, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ. Công trình đã được trao Giải thưởng Nhân tài Đất việt năm 2014.

Kỹ thuật có ưu điểm hơn so với các tác giả tại các quốc gia tiên tiến trên thế giới ở chỗ, việc tạo ra được khoang làm việc bằng sử dụng khí CO¬2 đã góp phần tiết kiệm về chi phí mổ (do không phải mua bộ dụng cụ treo để tạo khoang phẫu thuật vì dụng cụ này mới và rất đắt). Sử dụng khí CO2 an toàn và hiệu quả, dễ dàng tạo điều kiện cho các đơn vị cơ sở có khả năng áp dụng phương pháp này tại các bệnh viện tuyến dưới. Bên cạnh đó, phẫu thuật không những chữa được bệnh mà còn giữ nguyên được vẻ đẹp ban đầu do không để lại sẹo vùng cổ, làm cho người bệnh sau mổ tự tin trong giao tiếp và sớm trở lại với cuộc sống bình thường.

Quy trình phẫu thuật nội soi qua ngả tự nhiên (trực tràng, âm đạo) điều trị ung thư đại và trực tràng

Xuất xứ từ đề tài KHCN cấp NN “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi một lỗ (Single Port) và qua lỗ tự nhiên (NOTES) trong điều trị ung thư đại trực tràng”, mã số KC.10.31/11-15.

Quy trình phẫu thuật nội soi qua ngả tự nhiên (trực tràng, âm đạo) điều trị ung thư đại và trực tràng được tiến hành dựa trên các nghiên cứu cơ bản trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. Đặc biệt, cơ sở nghiên cứu là Bệnh viện Trung ương Huế đã có nhiều kinh nghiệm trong phẫu thuật nội soi điều trị ung thư đại trực tràng với tỷ lệ PTNS trên 85% (tương đương các trung tâm lớn trên thế giới).


Mổ cắt trình diễn đại tràng qua lỗ tự nhiên

Mổ cắt trình diễn đại tràng qua lỗ tự nhiên

Kỹ thuật nội soi được sử dụng trong cắt đoạn đại trực tràng ở nữ (qua âm đạo) và cắt đoạn trực tràng ở nam qua đường hậu môn cơ bản dựa trên tính năng của kỹ thuật pull-through qua cắt trực tràng nội soi qua thành bụng mà bệnh viện đã thực hiện thường qui, có một số điểm khác về kỹ thuật, nên sử dụng một phần ống soi mềm và một phần của nội soi truyền thống nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc về ung thư học cũng như tính thẩm mỹ cao.

Kết quả thực tế đã phẫu thuật thành công ung thư đại trực tràng cho 16 bệnh nhân qua hậu môn (lần đầu tiên ở Việt Nam) và 04 bệnh nhân qua âm đạo (lần đầu tiên trên thế giới).

Việt Nam là một nước đang phát triển, việc tiếp cận với các dịch vụ y tế kỹ thuật cao có phần chậm hơn so với các nước khác. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta triển khai được kỹ thuật này cũng sớm hơn nhiều nước trên thế giới. Người dân Việt Nam mặc dù nghèo nhưng cũng đã tiếp cận được với nền Y học hiện đại trên thế giới. Các bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng được điều trị bằng phương pháp nội soi single port và Hybride NOTES do có ít sẹo trên thành bụng, và một số lớn bệnh nhân vẫn đại tiện qua hậu môn tự nhiên nên không có mặc cảm, dễ hòa nhập với cộng đồng. Trả lại cho xã hội những con người vẫn còn khả năng lao động cống hiến. Lợi ích về mặt kinh tế khó tính toán, nhưng dễ nhận thấy qua thời gian nằm viện ngắn, tỷ lệ biến chứng thấp, sử dụng ít các dụng cụ khâu nối máy.

Quy trình công nghệ sản xuất vắc xin Rota sống, uống, giảm độc lực

Xuất xứ từ dự án sản xuất thử nghiệm cấp NN “Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất vắc xin Rota sống, uống, giảm độc lực”, mã số KC.10.DA.07/11-15.

Vắc xin Rota được sản xuất trên cơ sở hồ sơ chủng nghiên cứu và sản xuất chuẩn. Có lựa chọn các chủng sản xuất phổ biến tại Việt Nam, chính vì vậy vắc xin sản xuất có khả năng dự phòng hơn hẳn so với vắc xin cùng loại do có tính đến đặc điểm của nhiễm các chủng virus Rota tại Việt Nam. Các quy trình kỹ thuật thực hiện theo quy định nghiêm ngặt của tổ chức y tế thế giới, phòng thí nghiệm và nhân lực nghiên cứu đảm bảo yêu cầu. Công nghệ sản xuất vắc xin hiện đại theo tiêu chuẩn của các nước Tây Âu. Vắc xin đã được Trung tâm kiểm soát và phòng dịch Hoa Kỳ (CDC) kiểm định với kết quả an toàn và hiệu lực.


Sản phẩm Vắc xin Rotavin M1 phòng tiêu chảy cấp

Sản phẩm Vắc xin Rotavin M1 phòng tiêu chảy cấp

Theo các nghiên cứu gần đây tại Việt Nam, gần 60% bệnh nhi dưới 5 tuổi tiêu chảy cấp có căn nguyên là virus Rota. Chính vì vậy, nhu cầu vắc xin rota dự phòng là rất lớn (ước tính khoảng 3 triệu liều/năm). Vắc xin sản xuất ra có trình độ KHCN tương đương quốc tế (hãng GSK- Bỉ), với giá thành giảm khoảng 1/3 ngoại nhập (Vắc xin nhập: 750.000 đồng/liều; Vắc xin Việt Nam: 250.000đ/liều).

Thực tế Vắc xin đã sử dụng cho hơn 100.000 trẻ ở 60 tỉnh thành. Kết quả vắc xin được ứng dụng thành công trong thực tế đã đem lại niềm vui cho trẻ em và tiết kiệm hàng chục tỷ đồng cho Việt Nam. Cụ thể sẽ giảm 5.300 đến 6.800 ca tử vong hàng năm ở trẻ dưới 5 tuổi, giảm đến 820.000 lượt thăm khám của trẻ và giảm 122.000 đến 140.000 lần trẻ phải nhập viện do virut Rota. Như vậy đã tiết kiệm được 5,3 triệu đô la Mỹ, trong đó 3,1 triệu cho chí phí trực tiếp, 685.000 cho chi phí không thuộc lĩnh vực y tế và 1,5 triệu USD cho chi phí gián tiếp để điều trị bệnh tiêu chảy do virut Rota ở nước ta.

Đồng thời đây cũng là thành tựu to lớn của ngành Y học dự phòng nói riêng và ngành Y tế nói chung. Thành công này đã góp phần khẳng định Việt Nam là nước thứ 2 của châu Á và là một trong 4 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc xin Rota với công nghệ cập nhật quốc tế.

Bộ sinh phẩm xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và phát hiện gen kháng kháng sinh

Xuất xứ từ đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và phát hiện gen kháng kháng sinh”, Mã số KC.10.43/11-15.

Cho đến hiện nay, việc ứng dụng sinh học phân tử trong chẩn đoán xác định mầm bệnh gây nhiễm khuẩn huyết (NKH) vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Tại Việt nam, chưa có nhiều cơ sở y tế triển khai các xét nghiệm chẩn đoán mầm bệnh gây NKH bằng sinh học phẩn tử. Tại miền Bắc chỉ có Bệnh viện Nhi trung ương là ứng dụng bộ kit thương mại của công ty Roche (SeptiFast) để chẩn đoán mầm bệnh gây NKH, còn hầu như chưa có Bệnh viện nào đưa xét nghiệm này vào thực hành thường quy. Lý do là kít nhập ngoại quá cao, công nghệ khó, phức tạp đòi hỏi phải có chuyên gia giỏi mới có thể ứng dụng được.


Sinh phẩm loại DNA người làm giàu DNA vi khuẩn

Sinh phẩm loại DNA người làm giàu DNA vi khuẩn

Sản phẩm loại bỏ DNA người và làm giàu DNA vi khuẩn là sản phẩm độc quyền của đề tài, đã đăng ký sở hữu trí tuệ. Đây cũng là một hướng đi mới của chuyên ngành sinh học phân tử để giải quyết những vấn đề khó khăn của PCR khi có sự không cân bằng giữa DNA đích và DNA không phải đích gây ảnh hưởng đến kết quả.

Như vậy, sản phẩm các bộ sinh phẩm xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp và phát hiện gen kháng kháng sinh của đề tài đã góp phần làm thay đổi cách nhìn nhận về việc ứng dụng sinh học phân tử trong thực hành lâm sàng.

Sản phẩm có giá trị khoa học và thực tiễn, các bằng chứng khoa học đã chứng minh được độ nhạy, độ đặc hiệu của bộ sinh phẩm tạo ra. Đồng thời sản phẩm cũng cho thấy được sự thân thiện cho người sử dụng, rút ngắn thời gian chờ đợi kết quả, sẵn sàng chuyển giao công nghệ cho các cơ sở y tế có khoa sinh học phân tử. Giá thành phù hợp với điều kiện trong nước. Sản phẩm của đề tài là kết quả của việc ứng dụng công nghệ mới nhất trong thiết kế mồi (primer) để tối ưu điều kiện PCR. Đây là công nghệ mới nhất hiện nay được công bố trên thế giới và trong nước. Sản phẩm cũng được đăng ký sở hữu trí tuệ.

Sản phẩm của đề tài có những đặc điểm nổi bật ở trên, dự tính giá thành hạ, khả năng chuyển giao tốt. Hiện nay, tại Khoa Sinh học phân tử, Bệnh viện TƯQĐ 108 đang đưa vào ứng dụng để giúp Bác sỹ lâm sàng chẩn đoán xác định mầm bệnh gây NKH. Theo tính toán giá thành thấp chỉ bằng 1/3 sản phẩm kit thương mại SeptiFast.

(Còn tiếp)

Nguyễn Hùng