“Cha đẻ” của “3 chung” bàn về đổi mới tuyển sinh

(Dân trí) - “3 chung” vẫn còn hữu ích bởi bây giờ đã “may” được một “cái áo” nào vừa vặn hơn cho công tác tuyển sinh đâu. Năm trước, Bộ GD-ĐT đã từng lấy ý kiến các trường về phương án tuyển sinh và cuối cùng, “3 chung” vẫn được lựa chọn - GS.TSKH. Bành Tiến Long.

Theo GS.TSKH., Nhà giáo Nhân dân Bành Tiến Long, lịch sử phát triển luôn có sự tiến hóa, chính vì thế trong giáo dục đại học nói chung, tuyển sinh nói riêng, cũng cần có sự đổi mới và một phương án mới thay cho một phương án cũ thì phải tốt hơn, tiến bộ hơn.
 
Lý giải việc gặp khó trong tuyển sinh

Thưa GS, thời gian gần đây các trường ĐH, đặc biệt là ngoài công lập cho rằng tấm áo “3 chung” đã quá chật nên cần phải tìm một giải pháp tuyển sinh mới phù hợp hơn. Bên cạnh đó Luật Giáo dục ĐH đã có hiệu lực đồng nghĩa với việc các trường phải được tự chủ tuyển sinh. GS nghĩ sao về điều đó?

GS Bành Tiến Long: “3 chung” ra đời đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản cần phải giải quyết, nhất là bảo đảm được kỷ cương trong thi cử, điều mà trước “3 chung” đang vô cùng nhức nhối. Hẳn các bạn còn nhớ, những năm ấy, cứ đến mùa thi, xã hội lại nóng rẫy lên với các vấn đề liên quan đến kỳ thi quan trọng đối với mỗi học sinh này, đặc biệt là dạy thêm học thêm tràn lan, tiêu cực trong thi cử khi mỗi trường tuyển sinh riêng. Nhưng chỉ sau một vài năm áp dụng “3 chung”, kỷ cương đã được lập lại, dẫu một hai năm đầu cũng vô cùng khó khăn.

“3 chung”, trong đó có điểm sàn, đã tạo nên sự công bằng cho các thí sinh.
“3 chung”, trong đó có điểm sàn, đã tạo nên sự công bằng cho các thí sinh.

Nhưng tôi cho rằng, quan trọng hơn, “ 3 chung”, trong đó có điểm sàn, đã tạo nên sự công bằng cho các thí sinh. Điều này rất có ý nghĩa đối với thanh niên, lứa tuổi đang nhiều hoài bão, đầy nhiệt huyết và luôn đòi hỏi sự công bằng. Việc tạo ra một sân chơi bình đẳng không chỉ “nung” thêm nhiệt huyết cho giới trẻ mà còn bảo đảm sự phát triển bền vững. Tôi đã thống kê, trong những năm qua, số thí sinh trúng tuyển vào ĐH có đến 65 - 70% số thanh niên ở khu vực 2, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khoảng hơn 51% là nữ. Họ đã được cạnh tranh sằng sòng phẳng với những người ở nơi có điều kiện tốt hơn trong học tập để thực hiện ước mơ lớn nhất cuộc đời là ngồi trong giảng đường đại học. “3 chung” đã tạo cho họ sân chơi công bằng, khách quan và nghiêm túc. Việc thí sinh tự do di chuyển giữa các trường, các vùng miền một cách tự nhiên dựa trên một kết quả thi duy nhất thông qua các nguyện vọng 2, 3 mà không hạn chế “vùng tuyển”, đã tạo ra “cơ chế mở” cho thí sinh.

Đôi khi các anh chị nhà báo thường gán cho tôi cái danh hiệu là “cha đẻ” của “3 chung”, chính vì thế, không ít người sẽ nghĩ tôi phải bảo vệ “đứa con” của mình. Nhân cuộc trao đổi với báo Dân trí, tôi muốn nói rõ về điều này: “3 chung” là chủ trương của lãnh đạo Bộ. Chúng tôi là người được giao trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện việc này, đồng thời từng bước hoàn thiện cơ chế thi và xét tuyển.

Lý do tôi cho rằng “3 chung” vẫn còn hữu ích bởi bây giờ đã “may” được một “cái áo” nào vừa vặn hơn cho công tác tuyển sinh đâu. Tôi đã nghỉ quản lý nhưng vẫn theo dõi qua báo chí thì thấy, năm trước, Bộ GD ĐT cũng đã từng lấy ý kiến các trường về phương án tuyển sinh và cuối cùng, “3 chung” vẫn là sự lựa chọn của các đơn vị.

Gần đây một số trường ngoài công lập đã làm đề án tuyển sinh riêng trình lên Bộ GD-ĐT, thậm chí Hiệp hội các trường ngoài công lập nhiều còn kiến nghị bỏ điểm sàn để giải quyết khó khăn trong tuyển sinh. Theo GS thì có phải “3 chung” là nguyên nhân dẫn đến các trường gặp khó?

Tôi hoan nghênh các trường chủ động trình các phương án tuyển sinh, điều đó thể hiện “tinh thần đại học” của các trường. Tôi cho rằng, khó khăn trong công tác tuyển sinh trong vài năm gần đây của một vài số trường ngoài công lập không phải do phương án thi đem lại mà là do 2 nguyên nhân sau.

Một là, việc giao cho các trường tự xác định chỉ tiêu là đúng nhưng nếu các trường xây dựng quy mô quá lớn, tuyển sinh lại vượt chỉ tiêu, thậm chí thí sinh cứ trên điểm sàn là trúng tuyển thì các trường ngoài công lập rất khó tuyển. Và việc Quy chế tuyển sinh quy định mấy giấy báo điểm, mấy nguyện vọng đối với thí sinh không còn ý nghĩa nữa.

Hai là, việc xác định điểm sàn không nên quá cứng nhắc, bởi có khi chỉ cần giảm đi 0,5 điểm thì nguồn tuyển đã có thêm hàng chục ngàn thí sinh. Điểm sàn phụ thuộc mức độ khó, dễ của đề thi, tổng chỉ tiêu tuyển sinh, kết quả làm bài của thí sinh, các chế độ ưu tiên khu vực, đối tượng. Trong khi điểm sàn có giảm 0,5 điểm thậm chí 2 điểm cũng không làm ảnh hưởng đến việc đạt các mục tiêu vì nguyên tắc xét tuyển là lấy từ trên xuống đến hết chỉ tiêu đã được công bố. Quan trọng là các trường phải có ý thức trong việc chấp hành nguyên tắc tuyển sinh, chỉ cần tuyển đến 85% chỉ tiêu là đạt mục tiêu, nếu có vượt chỉ tiêu thì cũng chỉ vượt từ 5% đến 10% là cùng, không nên vơ vét thí sinh để các trường khác không còn nguồn tuyển.

 Nhưng với việc Bộ GD-ĐT giao cho các trường tự ý xác định chỉ tiêu cũng như xét tuyển dẫn đến trường công lập “vớt” hết thí sinh dẫn đến thiếu nguồn tuyển cho trường ngoài công lập?

Các trường tự xác định chỉ tiêu, tự chủ trong xét tuyển nhưng cơ quan quản lý nhà nước thì phải theo dõi, giám sát, phát hiện những nơi làm sai. Quan trọng là phải quy trách nhiệm, cam kết bằng văn bản, hiệu trưởng phải chấp hành cam kết đó, công khai kịp thời, chính xác số liệu về tuyển sinh trên các phương tiện thông tin đại chúng để xã hội và các đơn vị khác cùng giám sát. Tự chủ bao giờ cũng đi kèm theo trách nhiệm xã hội. Hiện nay, vì đào tạo theo học chế tín chỉ có sự đào thải khá nhiều trong quá trình đào tạo cho nên các trường có xu hướng tuyển nhiều hơn chỉ tiêu. Không khó để kiểm tra quy mô tuyển sinh của các trường và đây là trách nhiệm của người quản lý. Phát hiện nơi nào tuyển quá chỉ tiêu cho phép, kiên quyết xử lý một vài trường hợp thì tôi nghĩ mọi việc sẽ đâu vào đấy. Khi ấy các trường top dưới sẽ đủ nguồn tuyển.

Điểm sàn không nên xác định cứng nhắc

Như GS phân tích ở trên, rõ ràng điểm sàn không phải là nguyên nhân chính gây cho các trường gặp khó trong công tác tuyển sinh?

Đúng như vậy. Điểm sàn đã được xác định một cách khoa học và hợp lý trên cơ sở kết quả thi của thí sinh dự thi trong toàn quốc, chỉ tiêu tuyển sinh, đối tượng ưu tiên, vùng miền...Các dữ liệu này đã được xử lý, tổ hợp lại để ra điểm sàn. Tuy nhiên, như tôi đã nói, hội đồng xác định điểm sàn không nên quá cứng nhắc trong việc xác định điểm sàn. Điểm sàn chỉ là yêu cầu tối thiểu.

Trong hai năm đầu thi theo phương án 3 chung, khi chưa ban hành cơ chế điểm sàn, Bộ GD ĐT duyệt điểm trúng tuyển của từng trường, ảnh hưởng đến thời gian, tính chủ động và minh bạch trong tuyển sinh của các trường. Nhiều khi việc duyệt điểm trúng tuyển mà không có điểm sàn thì không có chuẩn mực để so sánh và phụ thuộc vào cái nhìn chủ quan của Bộ, lại còn mang tiếng cơ chế “xin-cho”.

Có tình trạng, thí sinh có điểm thi rất cao nhưng lại bị trượt trường này so với các em đỗ trường khác có điểm thi thấp hơn nhiều mà lại không có cơ hội cạnh tranh và dự tuyển vào các trường khác, gây tâm lý ức chế, thắc mắc trong xã hội. Sau đó, điểm sàn đã ra đời để vừa bảo đảm chất lượng đầu vào, vừa tạo sân chơi bình đẳng cho thí sinh và các trường, đồng thời đây chính là cơ sở để các trường tự chủ trong việc xét tuyển. Tôi cho rằng, điểm sàn không có “lỗi” trong việc một số trường gặp khó khăn trong tuyển sinh. Ngoài 2 lý do khách quan mà tôi vừa đề cập ở trên, còn những lý do mang tính “chủ quan”, bởi trên thực tế, rất nhiều trường ngoài công lập vẫn tuyển đủ chỉ tiêu.

Đổi mới tuyển sinh theo hướng nào?

Nếu xem qua các phương án tuyển sinh riêng của một số trường đề xuất lên Bộ sẽ nhận thấy một điểm chung đó là dùng kết quả kết kì thi tốt nghiệp THPT kết hợp với các hình thức kiểm tra khác như phỏng vấn, kì thi bổ sung… GS đánh giá như thế nào về hướng đổi mới tuyển sinh như vậy?

Cái gì cũng có tính lịch sử của nó, “3 chung” cũng vậy. Nhưng chưa bỏ được “3 chung” và tiến hành một kỳ thi sau THPT để vừa làm cơ sở đánh giá tốt nghiệp vừa làm điều kiện để xét tuyển là do chúng ta chưa tổ chức được một kỳ thi đạt được những mục tiêu mà “3 chung” đã đạt được. Chúng ta đi quá chậm. Sự chậm trễ này nằm trong bối cảnh chung, khi kinh tế của chúng ta tuy có tăng trưởng về con số tương đối nhưng tính theo số tuyệt đối thì vẫn còn quá ít, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội, trong đó có giáo dục.

Tôi cũng đã đọc các phương án tuyển sinh mà các trường trình Bộ GD ĐT xem xét, phê duyệt qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tôi nghĩ là về mặt lý thuyết, các phương án ấy đều hướng tới cách tuyển sinh hiện đại. Tuy nhiên, nhiều phương án nghiêng về kết quả THPT và ít tính khả thi. Ví như, nếu tổ chức phỏng vấn thì riêng chuyện thời gian để tiến hành cũng đã là vấn đề. Đó là chưa kể đến những yếu tố vô cùng quan trọng là ai là người phỏng vấn, chuẩn mực để đánh giá khi phỏng vấn như thế nào, liệu có loại được yếu tố “nhiễu” trong phỏng vấn để đánh giá khách quan và công bằng với mọi thí sinh… Theo tôi, cần phải xác định tỷ trọng hợp lý giữa kết quả thi theo đề thi chung và kết quả học THPT. Tỷ trọng này có thể thay đổi theo từng năm hay từng giai đoạn, từng đặc điểm đào tạo của trường và vào thời điểm này, nếu hợp lý là 50/50.

Đổi mới tuyển sinh cần phải bắt đầy từ tạo dựng một ngân hàng 

"Đổi mới tuyển sinh cần phải bắt đầy từ tạo dựng một ngân hàng đề thi đủ lớn" - GS., TSKH., Nhà giáo Nhân dân Bành Tiến Long.

Có nghĩa là kết quả học THPT chiếm 50% số điểm xét tuyển, còn lại là điểm thi đại học, và tỷ lệ này có thể áp dụng chung cho toàn quốc hay không, thưa GS?

Đấy là khuyến nghị dành cho các trường đang xây dựng phương án tuyển sinh riêng, bởi một số phương án quá nghiêng về kết quả phổ thông. Còn phạm vi toàn quốc thì chưa thể làm được điều này, cho đến khi chúng ta xây dựng được một ngân hàng đề thi chuẩn. Cách thi THPT hiện nay, trong đó có việc ra đề, tổ chức thi chưa bảm đảm độ tin cậy để làm căn cứ xét tuyển.

Đây là kinh nghiệm của thế giới. Một số nước chung quanh ta vẫn thi tuyển sinh đại học cao đẳng quốc gia, kể cả nước Nga. Những nước tiên tiến như Hoa Kỳ, Anh quốc… người ta vẫn phải tổ chức thi đấy chứ, chỉ có điều họ chỉ có một kỳ thi do một tổ chức khảo thí độc lập triển khai và cho kết quả tin cậy. Các trường cũng có thể sử dụng kết quả thi đó, kết hợp với một số kết quả kiểm tra khác để xét tuyển

Nhưng hiện nay dư luận xã hội đều cho rằng kì thi tốt nghiệp THPT chưa đáng tin cậy. Nếu bây giờ chúng ta thực hiện đổi mới theo hướng mà GS trao đổi ở trên thì liệu tiêu cực có phát sinh thêm?

Đây là những băn khoăn rất đúng và thực tế. Việc tổ chức nghiêm túc và tin cậy kỳ thi tốt nghiệp THPT hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của hệ thống quản lý giáo dục từ Sở GD-ĐT đến các trường THPT, từ cán bộ lãnh đạo đến đội ngũ nhà giáo. Đối với một số đề án nêu trên, tỷ trọng hợp lý xét tuyển giữa kết quả thi theo đề thi chung và kết quả học THPT 50/50 chỉ là bước thí điểm, trong khi mà chúng ta vẫn còn 2 cuộc thi. Lấy kết quả thi 50% của đề thi chung chắc chắn đảm bảo độ tin cậy kết hợp với 50% kết quả thi phổ tốt nghiệp THPT, xét về góc độ tính cơ bản và toàn diên của 6 môn thi chuyên môn là đảm bảo đủ đánh giá năng lực học của thí sinh. Tất nhiên các trường đó phải công bố công khai tổng điểm trúng tuyển tối thiểu và quy trình tuyển sinh minh bạch, kỷ cương để xã hội giám sát. Cũng cần triển khai để rút kinh nghiệm từ thực tiễn trong vài năm.

Để có được kết quả tin cậy, ngoài công tác tổ chức thi, chấm thi nghiêm túc, thì ngân hàng đề thi phải chuẩn. Lâu nay, đề thi của chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào sự chủ quan của người ra đề, cho nên, không phải lúc nào cũng bảo đảm các yêu cầu đối với một đề thi, nhất là về tính phân hóa.

Khi có ngân hàng đề thi, các trường lấy đề thi từ ngân hàng và tổ chức kiểm tra, đánh giá để kết quả bảo đảm độ tin cậy trong việc đánh giá và phân loại học sinh, xác định tỷ trọng hợp lý cho tốt nghiệp phổ thông và xét tuyển đại học trong đề thi, của từng trường, từng ngành nghề.

Để có một đề thi đạt chuẩn phải qua ít nhất là 3 vòng. Sau khi giáo viên ra đề, đề thi ấy phải được cho một bộ phận học sinh làm thử, sau đó đánh giá, phân loại, định lượng, lại rút kinh nghiệm, loại những đề thi không đạt, bổ sung đề mới trộn vào, rồi lại tổ chức thi thử trên học sinh. Làm ngân hàng đề thi chuẩn rất mất công, nhưng cũng chỉ cần tập trung 2 năm, có cơ quan chuyên trách việc này. Đây cũng là chuẩn làm ngân hàng đề thi của quốc tế.
 

Chúng ta không thiếu nhân lực, chỉ cần có tổ chức và có đầu tư là làm được. Đây là việc thế hệ chúng tôi chưa làm được và mong là thế hệ hôm nay sẽ hoàn thành, bởi nó sẽ là điều kiện tiên quyết để thay đổi phương án thi tuyển sinh và để các trường tự chủ trong công tác tuyển sinh một cách hiệu quả nhất.

Xin cảm ơn GS!
Nguyễn Hùng (thực hiện)