Làm gì khi học sinh giảm sút động cơ học tập?

(Dân trí) - “Học sinh sẽ giảm dần động cơ học tập từ bên trong. Điều này đúng với nhiều học sinh trung học cơ sở ở nhiều quốc gia trên thế giới” - đây là một phần nội dung trong bài giảng của chuyên gia tâm lý, TS. Pieternel Dijkstra (Hà Lan) tại buổi tập huấn về Tâm lý học nhân cách diễn ra mới đây tại Hà Nội.


(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Học sinh giảm dần động cơ học tập khi lên cấp 2

TS. Dijkstra cho biết học sinh lên cấp 2 sẽ giảm dần động cơ học tập từ bên trong. Tất nhiên không phải là học sinh nào cũng như vậy nhưng đây là bức tranh chung. Qua nghiên cứu cho thấy điều này không chỉ đúng với Hà Lan hay Việt Nam mà đúng với nhiều quốc gia trên thế giới.

Chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này, bà Dijkstra cho biết sự suy giảm này đến từ chính những thay đổi sinh lý trong cơ thể trẻ - những thay đổi hoạt động trong não bộ. Trẻ sẽ thấy hưng phấn với những phần thưởng tức thời (ví dụ tin nhắn facebook) mà quên đi phần thưởng lâu dài - như các hoạt động học tập); mối quan tâm ngoài xã hội ngày càng nhiều hơn (tình yêu, tình bạn...) khiến trẻ nhận ra trong cuộc sống, còn có nhiều niềm vui ngoài trường học và bài vở.

Điều này gây ra nhiều hệ quả tiêu cực khác như bỏ học, bỏ lớp (ví như ở Hà Lan có khoảng 8,7% học sinh bỏ học (trốn học) ít nhất một ngày hoặc hơn; 6,3% bỏ lớp một ngày hoặc hơn…, không hoàn thành chương trình, đánh mất tài năng do kết quả học và điểm số không tương xứng với năng lực… khiến cơ hội tham gia thị trường lao động ít hơn. Đây cũng là lý do vì sao ở Hà Lan, luật bắt buộc phải học đến năm 23 tuổi.

Một dự án nghiên cứu khá lớn và đáng chú ý được trình bày tại buổi tập huấn là nghiên cứu về tư duy và sự thỏa mãn nhu cầu tâm lý cơ bản của học sinh ở 3 nước: Hà Lan, Việt Nam và Curaçao với gần 800 học sinh trung học cơ sở tham gia.

Kết quả nghiên cứu này chỉ ra: điểm trung bình tư duy tiến triển ở học sinh Việt Nam cao hơn ở Curaçao và Hà Lan (4,59 so với 4,42 và 4,19 trên điểm tối đa là 7); điểm trung bình của tư duy cố định ở học sinh Việt Nam lại thấp hơn (3,30 so với 4,33 và 3,97). Những đáp ứng về quyền tự chủ cũng như tạo cơ hội phát triển năng lực cho học sinh Việt Nam thấp hơn học sinh hai nước còn lại. Điều này cho thấy Việt Nam cần tạo ra nhiều cách/cơ hội để cải thiện và đáp ứng nhu cầu của học sinh.

Chia sẻ về kết quả này, các học viên tại buổi tập huấn cho rằng học sinh Việt Nam kém tự tin là do lối giáo dục thụ động, giáo dục sự khiêm tốn từ nhỏ (nếu thể hiện sẽ bị đánh giá), đồng thời học sinh tại Việt Nam cũng bị áp đặt và yêu cầu nhiều hơn bởi gia đình và trường học. Hậu quả là học sinh bị ức chế, không dám bày tỏ ý kiến, chờ đợi giáo viên bảo gì làm đấy.... Không thật nhiều cơ hội được đáp ứng sự tự chủ và hiện thực hoá tối đa khả năng bản thân.


TS. Pieternel Dijkstra, chuyên gia tâm lý học xã hội làm việc trong lĩnh vực tâm lý học giáo dục, chuyên gia tâm lý học độc lập, nghiên cứu và thiết kế các chương trình trong lớp học (người đứng) đang lắng nghe ý kiến trao đổi từ các học viên tham gia buổi tập huấn (Ảnh: TP)

TS. Pieternel Dijkstra, chuyên gia tâm lý học xã hội làm việc trong lĩnh vực tâm lý học giáo dục, chuyên gia tâm lý học độc lập, nghiên cứu và thiết kế các chương trình trong lớp học (người đứng) đang lắng nghe ý kiến trao đổi từ các học viên tham gia buổi tập huấn (Ảnh: TP)

Cần thúc đẩy động cơ tự thân của học sinh

Theo bà Dijkstra, nhiệm vụ của giáo viên là thúc đẩy động cơ học tập tự thân của học sinh, vốn liên quan chặt chẽ với chính học sinh đó và môi trường học tập.

Điều này có nghĩa các giáo viên cần được đào tạo để đưa ra cách nhận xét, dạy dỗ như trao quyền tự chủ cho học sinh, giúp thỏa mãn nhu cầu thể hiện năng lực của học sinh, từ đó tìm thấy điều làm học sinh hứng thú... trong suốt quá trình học.

Như vậy khác với giáo dục truyền thống, vai trò của giáo viên khi áp dụng phương pháp dạy học hình thành và kích thích động cơ tự thân là thay vì luôn chỉ định, sai bảo, làm sẵn, áp đặt, ra mệnh lệnh, gò ép,… thì hướng dẫn, gợi mở, hỗ trợ, huấn luyện khi cần thiết.

TS Dijkstra lưu ý rằng có rất nhiều trường thực hiện các can thiệp tạo động cơ học tập cho học sinh một cách hoành tráng, đẹp đẽ nhưng lại không đi vào thực chất, hiệu quả kém và sau đó phải dừng lại. Nguyên nhân là do các chương trình này đã không được xây dựng dựa trên các nghiên cứu thực chứng cũng như chưa đánh giá được thực sự nguyên nhân nào khiến học sinh không có động lực hay động lực học tập thấp; cũng như chưa tìm hiểu thực tế nhu cầu tâm lý cơ bản (năng lực, sự tự chủ, mối liên quan) của học sinh được đáp ứng ra sao.

Buổi tập huấn do khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam và Quỹ tài năng trẻ Tâm lý học tổ chức ngày 6/12 với sự tham dự của hơn 200 người, tập trung vào 2 nội dung chính: Một là cập nhật các mô hình nhân cách và các công cụ đánh giá nhân cách hiện nay do PGS. TS Dick Barelds, chuyên gia tâm lý của ĐH Groningen (Hà Lan), thành viên ban điều hành hiệp hội Nhân cách châu Âu, thành viên thẩm định đo lường trắc nghiệm Hà Lan, có 120 công bố khoa học trong nước và quốc tế, trình bày.

Hai là về động lực học tập do TS. Pieternel Dijkstra, chuyên gia tâm lý học xã hội làm việc trong lĩnh vực tâm lý học giáo dục, chuyên gia tâm lý học độc lập, nghiên cứu và thiết kế các chương trình trong lớp học, xuất bản hơn 60 bài báo quốc tế và 20 cuốn sách tại Hà Lan, chia sẻ.

Trần Phương