Phản biện chỉ thành công khi dựa vào thông tin chính xác
Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, có sự hội nhập văn hoá giữa các nước, các quốc gia có thể học kinh nghiệm của nhau và tương tự nhau về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục…
Trên báo VietNamNet, mục Thông tin đa chiều của Tuần Việt Nam, mới đây có đăng bài viết: Hai chữ "Quốc gia" chưa nói lên điều gì, của tác giả Đinh Việt Bình.
Tác giả muốn dẫn người đọc đi đến một kết luận trong nhận thức là, tất cả các trường đại học ở nước ta, dù là công lập hay tư thục đều phải được bình đẳng. Do đó không nên tồn tại loại hình ĐH Quốc gia.
Tôi chưa bàn đến việc có nên hay không nên tồn tại các mô hình đào tạo gọi là ĐH Quốc gia. Do thực tế, gia đình tôi có chuẩn bị cho con sang học tại một trường ĐH bách khoa ở Pháp từ năm 2007, tôi có tìm hiểu tình hình và thấy cần trao đổi lại với tác giả bài viết trên. Bởi phản biện chỉ thành công khi dựa vào những thông tin chính xác.
Theo tác giả Đinh Việt Bình, sau năm 1945 nước Pháp có một loại trường ĐH gọi là Grands Ecoles. Loại này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong hệ thống giáo dục ĐH của Pháp. Chỉ vài phần trăm thí sinh có thể vào học, và nước Pháp đang có xu hướng xoá bỏ loại trường này.
Dựa vào đó, tác giả đặt câu hỏi có nên duy trì sự tồn tại của các ĐH Quốc gia của Việt Nam hay không .
Thực tế lại như thế này: Trước hết, Ecole là danh từ giống cái nên tính từ đi theo cũng phải là giống cái và loại trường đó là Grandes Écoles ( chứ không phải là Grands Ecoles).
Hệ thống giáo dục ĐH của Pháp thiết kế phù hợp với Thoả ước Bologna của toàn Châu Âu mà Pháp đã ký kết tham gia, khác với hệ thống giáo dục ĐH của Anh - Mỹ.
Đặc trưng của hệ thống các trường ĐH Pháp là có hai loại: ĐH tổng hợp (Université), đào tạo đa lĩnh vực và đa ngành. Các bậc học được thiết kế theo mô hình L-M-D của Châu Âu (tức Licence -Master và Doctorat, dịch sang Việt ngữ là Cử nhân- Thạc sĩ- Tiến sĩ, tương ứng số năm đào tạo là 3 năm, 5 năm và 8 năm).
Loại thứ hai là Grande École dịch ra là ĐH đẳng cấp cao, có nguồn gốc từ thế kỷ 19 (chứ không phải từ 1945), chuyên đào tạo viên chức cao cấp cho Chính phủ, nay đào tạo chuyên sâu các nhà chuyên môn ở trình độ cao trong một số chuyên ngành thuộc một số lĩnh vực, như kỹ sư, kiến trúc sư, nhà thẩm phán, nhà quản trị.
Loại trường này có quy mô nhỏ, chỉ vào khoảng 1000 sinh viên, kể cả sinh viên bậc tiến sĩ. Thuộc loại này có 13 trường ĐH bách khoa đào tạo kỹ sư (không kể trường bách khoa nổi tiếng thế giới là Ecole Polytechnique de Paris- Palaiseau), có Website chung là www.polytech-reseau.org, 5 Viện Quốc gia khoa học ứng dụng đào tạo kỹ sư khoa học ứng dụng có Website chung là www.insa-france.fr/ và khoảng 200 trường đào tạo kỹ sư khác, kể cả công lập và tư thục.
Loại trường này đào tạo trong 5 năm đạt trình độ Master (thạc sĩ khoa học) và bắt buộc phải đạt tiếng Anh 750/990 điểm TOEIC mới được tốt nghiệp. Kỹ sư ra trường có thể học tiếp 3 năm để lấy bằng tiến sĩ PhD. Tất cả các văn bằng kỹ sư đều phải được Hội đồng danh hiệu kỹ sư toàn nước Pháp (Cti) công nhận.
Loại trường này thi tuyển khắt khe nhưng không đến nỗi chỉ vài phần trăm thí sinh được vào học như tác giả Đinh Việt Bình đã viết. Điều rõ nét ở loại trường này là đào tạo rất chọn lọc qua từng năm học .
Ví dụ ở trường ĐH Bách khoa Nantes (con tôi đang học), trong khoá 2010-2011, tỉ lệ sinh viên thành công trong các năm học như sau: Năm thứ ba 83%, năm thứ tư 94%, năm thứ năm 94,2%, chưa kể 4% do chưa đạt trình độ tiếng Anh 750 điểm TOEIC, nên mặc dầu đã đạt tất cả các tín chỉ khác vẫn chưa được công nhận tốt nghiệp. Trường này chưa bao giờ có tỉ lệ thành công 100%.
Gần đây ở Đức và Pháp xuất hiện loại trường ĐH Tổng hợp hỗn hợp (The comprehensive universities, Université mixte) là một vài ĐH tổng hợp có quy mô rất lớn, bao gồm cả trường ĐH bách khoa, Viện đào tạo nhà quản trị (IAE), Viện ĐH Công nghiệp (IUT).
Ví dụ trong Université de Nantes có École Polytech de Nantes, Institut niversitaire de Technologies de Nantes, nhưng các trường này đều tự trị trong trường ĐH Tổng hợp hỗn hợp đó, hoàn toàn không phải là sự cáo chung loại trường Grande École như tác giả hiểu lầm.
Tác giả Đinh Việt Bình còn cho rằng chất lượng đào tạo của các trường ĐH Quốc gia chưa nói lên điều gì cần thiết cho sự tồn tại của chúng. Sự thật trong nhiều năm qua như thế này: Chất lượng đầu vào của họ cao hơn.
Chỉ thí sinh đạt điểm thi tuyển ĐH trên 21/30 điểm, mới vào được ngành điện tử của các trường ĐH bách khoa nhưng dưới điểm đó, thậm chí chỉ 17/30 điểm có thể vào học ngành điện tử các ĐH khác kể cả công lập...
Đội ngũ giảng viên có trình độ cao hơn. Rất nhiều trường ĐH không phải ĐH Quốc gia rất hiếm giảng viên thuộc lực lượng cơ hữu có trình độ thạc sĩ trở lên.
Loại trường này thi tuyển khắt khe nhưng không đến nỗi chỉ vài phần trăm thí sinh được vào học như tác giả Đinh Việt Bình đã viết. Điều rõ nét ở loại trường này là đào tạo rất chọn lọc qua từng năm học.
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp từ ĐH Quốc gia cao hơn, do đó dễ kiếm việc làm hơn. Có Công ty cổ phần điện tử nổi tiếng tại TPHCM (xin miễn nêu tên) đã tuyển kỹ sư vào Phòng nghiên cứu và phát triển (R&D). Chỉ những kỹ sư trường ĐH bách khoa mới đạt được tiêu chí lựa chọn của họ .
Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, có sự hội nhập văn hoá giữa các nước, các quốc gia có thể học kinh ngiệm của nhau và tương tự nhau về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, nhưng do không giống nhau về tiềm lực của quốc gia nên cách tổ chức ở từng giai đoạn phát triển có thể không giống nhau.
Không riêng Việt Nam, nhiều quốc gia (như Pháp, Đức) đang hướng tới sự bình đẳng về cơ hội học tập của công dân. Phải có những trường là công lập, học sinh sinh viên được miễn học phí. Các trường đó phải được ngân sách nhà nước đài thọ phần lớn chi phí đào tạo. Muốn vào các trường đó, sinh viên phải là những thí sinh đạt điểm thi tuyển cao.
Nếu điểm thi tuyển thấp thì vào các ĐH khác và có thể phải nộp học phí. Thương mại hoá giáo dục phải có giới hạn, và bình đẳng phải là như vậy.
Theo Vũ Việt Thắng
VietnamNet