Vụ cô giáo ở Nghệ An kêu oan: Cần làm rõ tội danh và mức hình phạt

Thế Hưng

(Dân trí) - Theo luật sư, đây là vụ án phức tạp, liên quan đến lĩnh vực đặc thù là giáo dục thường xuyên, trong bối cảnh nhà nước đang đẩy mạnh đổi mới giáo dục, thực hiện tự chủ trong giáo dục.

Dư luận đang quan tâm đến việc Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) mở phiên tòa xét xử, tuyên bà Lê Thị Dung - nguyên Giám đốc Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên (GDNN - GDTX) huyện Hưng Nguyên 5 năm tù về tội "lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ", gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 45 triệu đồng.

Bị cáo Lê Thị Dung đã có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm số 17 ngày 24/4 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên.

Hiện, nhiều ý kiến băn khoăn về mức án dành cho bà Dung.

Vụ cô giáo ở Nghệ An kêu oan: Cần làm rõ tội danh và mức hình phạt - 1

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Nguyên đọc các lệnh khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với bị can Lê Thị Dung (Ảnh: Công an Nghệ An).

Nhìn nhận sự việc dưới góc độ pháp lý, TS. LS Đặng Văn Cường, Trưởng đại diện văn phòng Luật Chính pháp cho rằng trong vụ án hình sự này cần phải làm rõ cả vấn đề tội danh và vấn đề hình phạt. Đồng thời, cần làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan khi để sự việc xảy ra nhiều năm mà không phát hiện, không có biện pháp ngăn chặn, xử lý gì.

"Đây là vụ án hình sự phức tạp, bị cáo kêu oan, bởi vậy tòa án cấp phúc thẩm sẽ thận trọng xem xét đánh giá toàn diện các tình tiết của vụ án để xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm, làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan để xử lý theo quy định của pháp luật", luật sư Cường chia sẻ.

Vụ án phức tạp, liên quan đến lĩnh vực đặc thù

Theo bản án sơ thẩm, từ ngày 1/10/2012 đến năm 2017, bà Dung là Bí thư Chi bộ, chủ tài khoản của Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Hưng Nguyên (nay là Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao nhiều lần thanh toán trái qui định để trục lợi.

Trong quá trình công tác, bà Dung đã chủ trì xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ (Quy chế này chưa được Sở GD&ĐT tỉnh Nghệ An thông qua) và áp dụng bản quy chế này dẫn đến chi sai nguyên tắc, hưởng lợi số tiền 48.383.908 đồng. Toàn bộ số tiền này được chuyển vào số tài khoản cá nhân của bà Lê Thị Dung tại ngân hàng.

Tuy nhiên tại phiên tòa, bà Dung cho rằng mình không phạm tội vì quy chế này đã được xây dựng hợp lệ và công khai, việc chi tiêu nội bộ như vậy là đúng pháp luật. Bởi vậy, sau khi bản án sơ thẩm kết tội bà Dung và tuyên phạt 5 năm tù, bà Dung đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án kêu oan, đề nghị tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án này.

Vụ cô giáo ở Nghệ An kêu oan: Cần làm rõ tội danh và mức hình phạt - 2

TS. LS Đặng Văn Cường, trưởng đại diện văn phòng Luật Chính pháp.

Luật sư Cường cho rằng, đây là một vụ án phức tạp liên quan đến lĩnh vực đặc thù là lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là giáo dục thường xuyên. Trong quá trình nhà nước đang đẩy mạnh đổi mới giáo dục, thực hiện tự chủ trong giáo dục, có rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh việc tổ chức hoạt động cũng như là về quản lý tài chính trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục thường xuyên nói riêng.

Trong đó có thể kể đến các văn bản như: Thông tư số 71/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập...

Luật sư Cường viện dẫn, theo quy định tại Mục VII Thông tư số 71/2006/TT-BTC trong đó về xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, được hướng dẫn như sau:

"1. Để chủ động sử dụng kinh phí hoạt động thường xuyên được giao đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, đơn vị sự nghiệp thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính có trách nhiệm xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ để cán bộ, viên chức thực hiện và Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát chi (nội dung xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ theo hướng dẫn tại phụ lục số 01 kèm theo Thông tư này).

2. Nguyên tắc, nội dung và phạm vi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ:

a) Quy chế chi tiêu nội bộ do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp ban hành sau khi tổ chức thảo luận rộng rãi dân chủ, công khai trong đơn vị và có ý kiến thống nhất của tổ chức công đoàn đơn vị.

b) Quy chế chi tiêu nội bộ phải gửi cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan tài chính cùng cấp để theo dõi, giám sát thực hiện; gửi Kho bạc Nhà nước nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch để làm căn cứ kiểm soát chi. Trường hợp có các quy định không phù hợp với quy định của Nhà nước thì trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan quản lý cấp trên có ý kiến yêu cầu đơn vị phải điều chỉnh lại cho phù hợp; đồng gửi cơ quan tài chính cùng cấp và Kho bạc Nhà nước nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch.

c) Nội dung quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế độ, tiêu chuẩn, định mức, mức chi thống nhất trong đơn vị, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao, phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị, sử dụng kinh phí tiết kiệm có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý.

d) Đối với nội dung chi thuộc phạm vi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ (chi quản lý, chi nghiệp vụ thường xuyên) đã có chế độ tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định (trừ một số tiêu chuẩn, định mức và nội dung chi quy định tại tiết e, của khoản này), Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp được:

- Đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động: Thủ trưởng đơn vị được quyết định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

- Đối với đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động: Thủ trưởng đơn vị quyết định mức chi....

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 24 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập:

"2. Trong khi chưa ban hành hoặc sửa đổi Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công trong từng lĩnh vực cụ thể theo quy định tại Khoản 1 Điều này, các đơn vị sự nghiệp công theo từng lĩnh vực được tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập…".

Theo nội dung vụ án thì hành vi vi phạm của bị cáo kéo dài nhiều năm, trong quá trình này thì cũng có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi bổ sung về cơ chế quản lý, về quy chế tài chính và các vấn đề có liên quan, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục thường xuyên.

Cụ thể: Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư liên tịch số 71/2014/TTLT-BTC-BNV ngày 30/5/2014 của Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Thông tư số 97/2010/TT-BTC ngày 6 tháng 7 năm 2010 của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 01/2023/TT-BGDĐT ngày 6 tháng 1 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo...

Bởi vậy, luật sư Cường cho rằng để giải quyết khách quan, toàn diện, đúng pháp luật vụ án này thì tòa án cấp phúc thẩm cần kiểm tra rà soát tất cả các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, các trung tâm giáo dục thường xuyên để giải quyết vụ án một cách công bằng, đúng pháp luật.

Cần thận trọng trong việc xem xét đánh giá toàn bộ các tình tiết có liên quan

Trong trường hợp tại thời điểm sự việc xảy ra mà không có văn bản pháp luật quy định cụ thể là quy chế chi tiêu nội bộ phải có sự phê duyệt của sở giáo dục và đào tạo thì mới được tổ chức thực hiện, thì hành vi của bị cáo không phạm tội.

Đây là vấn đề quan trọng quyết định đến việc bị cáo có oan hay không oan. Ngoài ra cũng cần xác định trách nhiệm của các tổ chức cá nhân có liên quan trong trường hợp có căn cứ cho thấy quy chế chi tiêu nội bộ đã được xây dựng công khai, thông tin công khai cho các cơ quan chức năng và nhiều cơ quan cùng công nhận hiệu lực, tổ chức thực hiện quy chế này...

Về lý luận cấu thành tội phạm thì tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ có lỗi cố ý, bởi vậy để buộc tội bị cáo thì cơ quan tố tụng phải thu thập các tài liệu chứng cứ để chứng minh bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi, mong muốn hoặc bỏ mặc hậu quả thiệt hại cho nhà nước xảy ra, thiệt hại từ 10.000.000 đồng trở lên thì hành vi cấu thành tội phạm.

Theo nội dung trình bày tại phiên tòa thì bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội, cho rằng quy chế đã được xây dựng hợp lệ và việc chi tiêu thực hiện đúng quy chế, được công khai trước nhiều cơ quan chức năng. Bởi vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cấp phúc thẩm cần làm rõ nhận thức, ý thức chủ quan của bị cáo khi thực hiện việc chi tiêu nội bộ này như thế nào, chứng cứ nào chứng minh bị cáo đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý.

"Trường hợp pháp luật chưa quy định rõ ràng, còn nhiều cách hiểu khác nhau thì không nên xử lý hình sự trong trường hợp này mà có thể áp dụng biện pháp xử lý khác để truy thu tài sản cho nhà nước, rút kinh nghiệm, tiến hành kỷ luật cũng có thể giải quyết được vấn đề", TS. LS Đặng Văn Cường nhấn mạnh.

Ngoài ra theo ông Cường, cơ quan chức năng cũng làm rõ những thông tin dư luận về việc mâu thuẫn nội bộ, nguyên nhân sự việc để giải quyết triệt để, đảm bảo công bằng, khách quan, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bà Dung phạm tội 2 lần trở lên nên áp dụng khoản 2, điều 356 bộ luật hình sự với khung hình phạt là phạt tù từ 5 năm đến 10 năm, tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bà Dung ở mức thấp nhất là 5 năm tù. Trường hợp nếu bà Dung có tội thì việc kết án 5 năm tù không sai.

Theo quy định tại điều 54 bộ luật hình sự thì trường hợp người phạm tội có từ 2 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điều 51 bộ luật hình sự trở lên thì có thể chuyển sang khung hình phạt khác liền kề nhẹ hơn. Bởi vậy, trong trường hợp bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội phải được xác định là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, bản thân có nhiều thành tích xuất sắc trong quá trình làm việc thì có thể được chuyển sang khung hình phạt liền kề nhẹ hơn là phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.

Tuy nhiên, trong vụ án này, tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bà Dung không thành khẩn khai báo, không nhận tội nên không được áp dụng điều 54 của bộ luật hình sự để chuyển khung hình phạt.

Thông thường, khi bị cáo đã kêu oan thì mức hình phạt 1 năm hay 5 năm đều như nhau, nhiều bị cáo kêu oan thì dù tòa tuyên 1 ngày tù, bị cáo cũng không chấp nhận. Bởi vậy bị cáo không kháng cáo về hình phạt mà chỉ kháng cáo kêu oan và cho rằng việc kết tội như vậy là oan sai.

Đây là vụ án phức tạp, dư luận có nhiều thông tin trái chiều, bản thân bị cáo bức xúc và kháng cáo kêu oan. Bởi vậy, luật sư Cường cho rằng tòa án cấp phúc thẩm cần thận trọng trong việc xem xét đánh giá toàn bộ các tình tiết có liên quan đến vụ án, làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm, đặc biệt là quy định của pháp luật về việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị sự nghiệp công để xác định hành vi của bị cáo có vi phạm pháp luật hay không, mức độ xử lý như thế nào cho phù hợp với quy định của pháp luật.

Trường hợp không đủ căn cứ để kết tội thì phải sửa bản án sơ thẩm để tuyên bố bị cáo không phạm tội và phục hồi các quyền công dân của bị cáo theo quy định của pháp luật.