Bạn đọc viết:
Những người “gieo mầm” trên đá
Tạm biệt các thầy cô giáo nơi vùng cao của huyện Quản Bạ chúng tôi trở về thị xã Hà Giang. Hy vọng những con đường vào các thôn bản sẽ sớm được trải nhựa để đỡ đi khó khăn các thầy cô. Và từ đây những cái chữ được gieo sẽ sớm cựa mình thức dậy.

Ngay sau ngày khai giảng năm học mới, chúng tôi có dịp lên công tác tại huyện Quản Bạ, dịp này tôi có cơ hội được ngồi trò chuyện cùng với các thầy cô giáo của trường tiểu học xã Cán Tỷ, mặc dù mới quen nhưng chúng tôi nói chuyện khá thân thiết với nhau qua những câu chuyện kể chúng tôi có cảm giác như đã từng quen lâu lắm rồi, các thầy cô nói từ chuyện đời đến chuyện nghề… vui có, buồn có thôi thì đủ thứ chuyện. Dù có nói chuyện gì đi chăng nữa nhưng cứ mỗi lần có ai đó nhắc đến các điểm trường thuộc trường tiểu học xã Cán Tỷ là đa số các thầy cô giáo ở đây đều lắc đầu ngán ngẩm, bởi đường đến các điểm trường vô cùng khó khăn, vất vả.
Ngoài ra tất cả mọi thứ ở đây đều thiếu thốn trăm bề. Để đến với các điểm trường của trường tiểu học xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ các thầy cô giáo phải qua những đoạn đường đi rất khó khăn. Cũng vẫn còn có những điểm trường chỉ có duy nhất một cách là đi bộ thì mới đi được đến nơi. Đến được điểm trường đã khó, việc vận động học sinh đến lớp còn khó khăn hơn và đó là kết cục của một bài toán còn chưa có lời giải. Vậy mà ở những nơi khó khăn như thế vẫn có những thầy cô kiên cường bám trụ.
Nghe những câu chuyện kể về các điểm trường với những nỗi khó khăn vất vả mà các thầy cô giáo đang hàng ngày, hàng giờ phải vật lộn đã làm khơi dậy trí tò mò của chúng tôi. Và thế là chúng tôi quyết định lên đường để đến với một trong số những điểm trường đó. Trường tiểu học xã Cán Tỷ có 9 điểm trường, điểm trường mà chúng tôi đến là điểm trường Sủa Lùng Vái. Từ trường chính đến điểm trường này dài 11 km, vì không quen đường nên chúng tôi phải mất hơn 1giờ đồng hồ mới đi được đến nơi. Trên đường đi, đá gồ ghề, ghập ghềnh rất khó đi, những chiếc xe máy phải gầm rú liên hồi với vận tốc chỉ từ 5 đến 10km/h. Đa số trên suốt quãng đường đi xe máy chỉ có thể cắm số 1 đến số 2 thì mới có lực để leo dốc.
Chúng tôi đến được trường khi đã gần cuối buổi học, điều đầu tiên chúng tôi nhận được đó là những ánh mắt nhìn đầy thiện cảm, hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng của các em học sinh nơi đây đã dành cho chúng tôi. Điểm trường có hơn 50 học sinh, đa phần các em là con em của đồng bào dân tộc Mông. Toàn thôn có 86 hộ gia đình thì có đến 50% là số hộ nghèo, cuộc sống của các gia đình chủ yếu dựa vào nương rẫy ngoài ra không có thu nhập gì khác.
Đi thăm một lượt quanh điểm trường Sủa Lùng Vái, chúng tôi vào nghỉ tại phòng của cô giáo trẻ Dương Thị Cảnh. Là giáo viên trẻ mới ra trường, cô giáo Dương Thị Cảnh được phân công lên đây đây công tác và đó cũng là ước nguyện để cô giáo trẻ thực hiện ước mơ từ thủa nhỏ của mình đó là đưa cái chữ đến cho các em nhỏ vùng cao.
Câu hỏi đầu tiên mà cô dành cho chúng tôi đó là: “Các anh chị đi lên được đến đây có bị ngã xe lần nào không? Thời gian đầu mới lên nhận công tác tại đây vì đi chưa quen đường và tay lái yếu nên có những lần để đi lên được đến trường em phải ngã xe đến vài lần.”
Rồi qua câu chuyện cô cho biết Lớp học của cô có hơn mười em học sinh, điều khó khăn đầu tiên mà cô gặp phải đó là việc bất đồng ngôn ngữ, chính vì vậy mà cả cô và trò đều phải học, cô thì học tiếng dân tộc của địa phương, trò thì học tiếng Kinh.
Vì điểm trường ở xa xôi và đi lại khó khăn nên có khi 1 tuần đến chục ngày cô mới vượt quãng đường 11 km để đến chợ mua sắm phục vụ đủ cho việc sinh hoạt trong 1 tuần liền cô mua đủ thứ từ gạo, mắm, muối, mì tôm còn thức ăn thì đa phần là đồ hộp, và đồ khô những thứ có thể dự trữ được lâu ngày. Những khi trời mưa gió, rét mướt thì có khi cả tháng trời cô mới xuống huyện để mua sắm một lần.
Rau xanh tại đây rất hiếm nên giờ nghỉ cô tranh thủ trồng vài luống để phục vụ thêm cho cuộc sống, nhưng nơi đây cao và lạnh lại thiếu nước từ 3 đến 4 tháng trong năm nên việc chăm sóc vài luống rau cũng rất khó khăn.
Điểm qua một lượt trong căn phòng ở của các cô giáo, mọi vật dụng không có gì là đáng giá, cơ sở vật chất tuềnh toàng, mọi thông tin diễn ra bên ngoài xã hội hầu như các thầy cô giáo nơi đây không được cập nhật thường xuyên. Cũng may thời đại công nghệ thông tin bùng nổ các thầy cô vẫn còn có chiếc điện thoại để làm bầu bạn sớm hôm. Các cụ ngày xưa có câu “cái khó ló cái khôn” câu nói này áp dụng cho các thầy cô giáo ở đây thật hợp lý, vì không có điện để sạc pin điện thoại nên chính các cô đã nghĩ ra cách sạc bằng những đôi pin và qua đó đã mang lại hiệu quả rất thiết thực...
Thời điểm này thời tiết mới chỉ bắt đầu sang thu nhưng tại nơi vùng cao này, cái lạnh đã bắt đầu lẩn khuất, mỗi buổi chiều đến sương mù giăng kín. Bản làng sắp chìm trong cái lạnh giá của mùa đông. Ánh điện vẫn chưa về được với bản, các thầy cô giáo vẫn phải sống trong ánh sáng leo lắt của ngọn đèn dầu mỗi khi màn đêm buông xuống, và trước khi ánh hoàng hôn tắt dần ẩn sau những dãy núi là những lúc các thầy cô giáo nơi đây phải tranh thủ hoàn thành nốt những việc còn lại trong ngày để đến ngoài trời không còn một chút ánh sáng lúc ấy là lúc mà tất cả các thầy cô giáo cùng dành thời gian miệt mài bên trang giáo án.
Nghĩ lại những mùa đông trước mà cô Dương Thị Cảnh không khỏi xót xa. Các em học sinh nơi đây nghèo lắm, nhiều em đến trường phải mặc quần áo rách, đi chân trần. Mùa đông đến các em không có đủ áo ấm để mặc. Với lòng mong muốn vào một ngày mai tương sáng của các em và sự quyết tâm của chính bản thân mình, cô tự nhủ cho dù có khó khăn đến mấy cô cũng phải vượt qua, ở đây dù thiếu thốn trăm bề nhưng tấm lòng của người dân luôn rộng mở, tình cảm chân thành. Nếu không vượt qua được vì ngại khó, ngại khổ thì tương lai của các em học sinh nơi đây sẽ ra sao nếu không có cái chữ.
Không thể nói hết được những khó khăn vất vả mà các thầy cô giáo vùng cao đặc biệt là giáo viên của các điểm trường đang hàng ngày phải đối mặt. Mặc dù vậy, hàng ngày dù trời mưa hay nắng các thầy cô giáo vẫn phải lặn nội để đem cái chữ đến cho các em học sinh, vẫn đến với các em bằng tình thương yêu, trách nhiệm nghề nghiệp và vì tương lai của những học trò nghèo vùng cao.
Công tác tại các phân trường vùng cao, các thầy cô giáo nơi đây không chỉ nỗ lực vượt khó hết lòng “gieo chữ” mà trong hoàn cảnh khó khăn ấy, các thầy cô đã luôn vận động, quyên góp tại các điểm trường chính, trong đội ngũ giáo viên để lấy có được những cái quần, tấm áo, những đôi dép, quyển sách để ủng hộ các em. Đó cũng là động lực quan trọng động viên và thúc đấy các em, để các em có điều kiện nuôi chữ, bám trường.
Đến các phân trường vùng cao mới hiểu hết nghĩa tình của các thầy cô giáo, mới hiểu hết những vất vả mà hàng ngày họ phải đối mặt. Những việc làm của họ luôn được mọi người khâm phục bởi tấm lòng họ luôn hướng về học sinh nghèo vùng nơi vùng cao xa xôi. Thật xúc động khi nghĩ đến những tấm lòng của các thầy cô giáo vùng cao, họ đang ngày ngày gieo mầm những con chữ, những cái nghĩa, cái tình đối với học sinh và càng hiểu càng thấm thía hơn nỗi vất vả, sự nỗ lực, tinh thần trách nhiệm của những giáo viên nơi đây.
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số họ không mong gì hơn là một mái nhà luôn đỏ lửa, ngô lúa đầy nhà, trâu, bò, lợn, gà đầy truồng. Cũng như những thầy cô giáo đang ngày đêm miệt mài “gieo chữ” trên quê hương Hà Giang nói chung và của Quản Bạ nói riêng, họ biết thế nào là tốt cho tương lai mai sau và họ cũng hiểu người dân đang cần gì ở họ. Vì thế mà họ ra sức chăm lo cho những cây đời, chăm lo cho những mầm non tương lai của đất nước.