Đề nghị xét xử công tâm vụ án có dấu hiệu oan sai tại TP Bắc Giang

(Dân trí) - Thời gian qua, dư luận tại phường Hoàng Văn Thụ, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang hết sức bức xúc trước các dấu hiệu xét xử oan sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông Nguyễn Văn Tráng và bà Nguyễn Thị Chung.

Luật sư Nguyễn Hồng Bách trả lời PV Báo Dân trí
Luật sư Nguyễn Hồng Bách trả lời PV Báo Dân trí
 
Để làm rõ vụ án này, PV Dân trí  đã có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Hồng Bách, thuộc Công ty luật Hợp danh Hồng Bách và Cộng sự - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội dưới góc nhìn pháp lý về vụ án này.

Luật sư Bách cho hay: Tôi tham gia tố tụng, với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Văn Tráng và bà Nguyễn Thị Chung trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất được TAND thành phố Bắc Giang đưa ra xét xử.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như tham gia phần xét hỏi tai phiên tòa, tôi đưa ra những quan điểm pháp lý như sau:

Tôi khẳng định: toàn bộ thửa đất số 58 tờ bản đồ số 07 có diện tích 358,2m2 tại xóm Vĩnh, xã Dĩnh Kế, thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang cũ, nay là tổ dân phố Vĩnh Ninh 1, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang đã bị UBND thị xã Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 22778 ngày 22/12/2004 cho ông Nguyễn Văn Cường là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông Nguyễn Văn Tráng và bà Nguyễn Thị Chung, bởi căn cứ như sau:

Trong quá trình sử dụng đất, ông Tráng và bà Chung đã khai hoang và sử dụng 68,03 m2 đất (từ những năm 1991), nằm ngoài diện tích đất do cụ Nguyễn Văn Nhủ và cụ Nguyễn Thị Hàn (bố mẹ đẻ ông Cường) để lại, bởi vì:

Tổng điện tích quyền sử dụng đất mà cụ Nhủ và cụ Hàn để lại theo Bản án phúc thẩm số 08/2006/DS – PT ngày 26/01/2006, TAND tỉnh Bắc Giang là 21 thước Bắc Bộ, tương đương với 504 m2 đất. Cụ Nhủ và cụ Hàn có ba người con là ông Nguyễn Văn Cường, ông Nguyễn Văn Phú và bà Nguyễn Thị Ước.

Khi còn sống, cụ Nhủ và cụ Hàn đã chia cho ông Phú 10 thước đất, tương đương 240m2, còn lại diện tích 264m2 giao cho ông Cường sử dụng.

Trong quá trình sử dụng thì ông Cường có giao một phần đất cho con trai là anh Ích và con dâu là chị Nền sử dụng và anh Ích chị Nền đã xin thêm 26,17 m2 đất giếng làng. Như vậy, tổng diện tích đất mà ông Cường, anh Ích chị nền sử dụng được nâng lên thành 504 m2 + 26,17 m2 = 530,17 m2.

Như vậy, tổng diện tich ông Cường còn lại sau khi đã trừ 240 m2 của ông Phú thì ông Cường còn lại : 530,17 m2 – 240 m2 = 290,17 m2.

Tuy nhiên, trên thực tế ông Cường lại được cấp GCNQSD Đ với điện tích 358,2 m2 tức là thừa 68,03 m2 (358,2 m2 – 190,17 m2 = 68, 03 m2).

Thực tế, phần diện tích gần 70 m2 này (68,03 m2 đã được làm tròn) là phần diện tích khai hoang của anh Tráng và chị Chung.

Do đó, nếu ông Cường chỉ có 290,17 m2 đất (kể cả phần lấn đất giếng làng 26,17 m2 của anh Ích) nhưng UBND thị xã Bắc Giang (nay là UBND Tp Bắc Giang) lại cấp GCNQSDĐ số AB 227778 ngày 22/12/2004 với diện tích 358,2 m2 đất là sai. GCN QSD đất này cần phải được thu hồi để hủy bỏ.

Thực tế nêu trên đã được chứng minh thông qua các chứng cứ sau: Bản án dân sự phúc thẩm số 08/2006/DS – PT ngày 26/01/2006 của TAND tỉnh Bắc Giang; Đơn đề nghị của bà Nguyễn Thị Ước (em gái ông Cường), có xác nhận của UBND phường Thọ Xương ngày 28/01/2011; Đơn đề nghị ngày 26/01/2011 của ông Nguyễn Xuân Cần trú tại tổ dân phố Vĩnh Ninh 02, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; Đơn đề nghị của ông Nguyễn Văn Giáp trú tại: Tổ dân phố Vinh Ninh 01, phường Hoàng Văn Thụ thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; Biên bản xác minh ngày 10/8/2009, với nội dung xác nhận sự việc của ông Nguyễn Văn Phú (em trai ông Cường); Biên bản xác minh ngày 12/8/209, có nội dung xác nhận nội dung sự việc của ông Nguyễn Văn Giáp – Nguyên là bí thư Đảng ủy xã Dĩnh Kế, Bí Thư chi bộ tổ Vĩnh Ninh 01 từ năm 2003 – 2008, có địa chỉ tại Tổ Vĩnh Ninh 01, phường Hoàng Văn Thụ, Tp Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; Biên bản xác minh ngày 12/8/2009, có nội dung xác minh sự việc của ông Nguyễn Hữu Dư (trưởng dòng họ Nguyễn) trú tại Tổ Vĩnh Ninh 01, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; Biên bản xác minh ngày 10/8/2009 với bà Nguyễn Thị Ước (em gái ông Cường);

Qua các chứng cứ nêu trên có đầy đủ căn cứ để khẳng định: Trong quá trình sử dụng đất do ông Cường và bà Mai cho, vợ chồng anh Tráng và chị Chung đã khai hoang, cải tạo và sử dụng thêm diện tích 68,03m2 đất.

Diện tích 68,03m2 đất trên đã được vợ chồng ông Tráng và bà Chung sử dụng liên tục, ổn định từ năm 1991 cho đến nay, đã xây dựng nhà ở và nộp thuế quyền sử dụng đất đầy đủ. Do đó, theo quy định tại Điều 49 và Điều 50 Luât Đất đai năm 2003, diện tích đất này phải thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông Tráng và bà Chung.

Đối với phần đất còn lại có nguồn gốc do cụ Nhủ và cụ Hàn để lại, có diện tích 290,17m2 (nằm ngoài diện tích đất 68,03m2 nêu trên) là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông Tráng và bà Chung, bởi vì:

Thứ nhất: Ông Tráng ở trên mảnh đất này từ khi được sinh ra, còn chị Chung ở từ năm 1979. Năm 1990, hai ông bà đã xây nhà mái bằng 01 tầng (đến nay đã là 23 năm), năm 2003 xây nhà mái bằng 02 tầng (đến nay đã là 10 năm), có tổng diện tích là 130m2 mà không bị ông Cường và bà Mai phản đối, không có bất kỳ khiếu kiện nào.

Thứ hai: Chứng cứ là các văn bản: Hồ sơ kỹ thuật thửa đất số 58 tờ bản đồ số 7, diện tích 358,2m2 có xác định tọa độ lập tháng 10 năm 1998; Trích lục bản đồ ngày 21/12/2012 do ông Nguyễn Quảng Thành – phó giám đốc văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Bắc Giang ký ngày 21/12/2012 đều thể hiện chủ sử dụng đất là ông Tráng và bà Chung.

Thứ ba:  Ông Tráng và bà Chung đã nộp tiền thuế sử dụng đất từ năm 1995 đối với toàn bộ diện tích 358,2m2 thể hiện ở  các phiếu thu, biên lai thu thuế nhà, đất từ năm 1995 đến 2004.

Thứ tư: Giấy đăng ký mua điện cũng thể hiện chủ sử dụng điện trên địa chỉ trên là ông Tráng. Việc ông Tráng và bà Chung sử dụng đất, cũng như có tên trong hồ sơ địa chính, đóng thuế quyền sử dụng đất là diễn ra công khai, liên tục trong một thời gian dài (hàng chục năm), nhưng ông Cường và bà Mai không có bất kỳ sự phản đối, tranh chấp, khiếu kiện gì.

Thứ năm: hộ ông Cường và bà Mai chuyển hộ khẩu đi từ năm 1990, không nộp thuế quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nêu trên.

Do đó, ông Cường và bà Mai đã chuyển toàn bộ quyền sử dụng phần đất có nguồn ngốc do cụ Nhủ và cụ Hàn để lại cho ông Tráng và bà Chung. Thực tế, ông Tráng và bà Chung cũng đã sử dụng công khai, ổn định, liên tục, cũng như đóng thuế quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích 358,2m2, cũng như xây dựng các công trình trên các phần đất này.

Chính vì vậy, ông Tráng và bà Chung là chủ sử dụng đất hợp pháp đối với toàn bộ thửa đất số 58, tờ bản đồ số 7, có diện tích 358,2m2 tại cụm 1, khu phố Vĩnh Ninh 1 – phường Hoàng Văn Thụ - Tp Bắc Giang – tỉnh Bắc Giang.

Việc vợ chồng ông Tráng và bà Chung đã đồng ý để lại cho ông Cường và bà Mai diện tích 75m2 đất để ông bà ở và sinh hoạt. Đây là sự tự nguyện của ông Tráng và bà Chung.

Về yêu cầu hủy GCNQSDĐ số AB 227778, do UBND thị xã Bắc Giang (nay là Tp Bắc Giang) cấp cho ông Nguyễn Văn Cường và bà Nguyễn Thị Mai ngày 22/12/2004.

Từ những phân tich nêu trên có thể thấy, toàn bộ thửa đất số 58, tờ bản đồ số 7 có diện tích 358,2m2 là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Tráng và bà Chung. Do đó, việc UBND thị xã Bắc Giang (nay là UBND Tp Bắc Giang) cấp GCNQSDĐ số AB 227778 ngày 22/12/2004 cho vợ chồng ông Cường và bà Mai là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông Tráng và bà Chung.

Từ những phân tích nêu trên tôi nhận thấy: Diện tích 358,2 m2 đất tại tờ bản đồ số 7 thửa đất số 58 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Văn Tráng và bà Nguyễn Thị Chung; Việc UBND thị xã Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 22778 ngày 22/12/2004 cho ông Nguyễn Văn Cường trên thửa đất số 58, tờ bản đồ số 7 của ông Nguyễn Văn Tráng và bà Nguyễn Thị Chung là trái pháp luật; Việc ông Nguyễn Văn Tráng và bà Nguyễn Thị Chung tự nguyện giao 75 m2 đất cho ông Cường và bà Mai sử dụng là phù hợp với đạo lý làm con.

Chính vì vậy, tòa án cần bác yêu cầu của nguyên đơn, công nhận vợ chồng ông Tráng và bà Chung là chủ sử dụng hợp pháp của toàn bộ thửa đất số 58, tờ bản đồ số 7, có diện tích 358,2m2  tại cụm 1 – Khu phố Vĩnh Ninh 1 – phường Hoàng Văn Thụ - Tp Băc Giang, tỉnh Bắc Giang; Giao cho ông Cường và bà Mai tạm sử dụng diện tích 75m2, phía mam giáp nhà ông Tưởng (6,5m), phía bắc (6,5m) và phía Tây (11,5m) giáp nhà ông Tráng và bà Chung, phía đông giáp đất nhà ông Thanh (11,5m); Kiến nghị thu hồi và Hủy bỏ GCNQSDĐ số AB 227778 ngày  22/12/2004 đã được UBND thị xã Bắc Giang cấp trái pháp luật cho vợ chồng ông Cường và bà Mai.

Vũ Văn Tiến (ghi)