Vụ “siêu lừa” Thái Lương Trí:

Cơ quan điều tra kết luận vụ làm giả con dấu và tài liệu

(Dân trí) - Xung quanh vụ án “siêu lừa” Thái Lương Trí, kết luận của cơ quan điều tra và những lời khai của bị cáo đều thể hiện rõ hành vi làm giả con dấu, tài liệu cơ quan, tổ chức để chiếm đoạt tài sản của Thái Lương Trí và đồng bọn.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu được 3 con dấu mang tên Công ty cổ phần (CP) Khoáng sản Lào - Việt ( ký hiệu L. V. M) tại nhà Thái Lương Trí, trong đó chỉ có duy nhất 1 con dấu có cán màu đen và mang ký hiệu L. V. M (con dấu số 1) đã được chấm mực, còn lại 2 con còn mới nguyên.
 
Phiên tòa xét xử Thái Lương Trí (bên trái) nhiều lần bị hoãn bất thường
Phiên tòa xét xử Thái Lương Trí (bên trái) nhiều lần bị hoãn "bất thường"

Như vậy, trong suốt thời gian từ tháng 3/2008 đến khi bị bắt (ngày 27/5/2009), Thái Lương Trí sử dụng 1 con dấu duy nhất là con dấu số 01 (có ký hiệu L. V. M). Lật lại hồ sơ, ngày 4/3/2008, Trí sử dụng con dấu này đăng ký mở tài khoản số 010 01 11 900 1159 của Công ty CP Khoáng sản Lào – Việt tại Ngân hàng Liên doanh Lào Việt, thủ đô Viêng Chăn - Lào. Ngày 23/4/2008, Trí ký đóng vào đơn đề nghị Cục mỏ xin cán bộ đi cắm mốc; ngày 24/4/2008 ký đóng vào đơn đề nghị xin xóa bỏ giấy phép đầu tư số 011-04 cấp ngày 18/11/2004 của Công ty Khai khoáng Oong Khăm. Tuy nhiên, phải đến ngày 25/3/2008, Cục Công Thương Lào mới cấp Giấy phép khắc dấu chính thức số 0058, con dấu có ký hiệu L. V. M. Giấy phép này quy định: Đề nghị (cơ quan được cấp dấu – PV) tới Bộ Công an là người khắc dấu, cấp giấy phép sử dụng, quản lý và theo dõi kiểm tra việc sử dụng dấu của công ty đó đúng theo quy định của pháp luật.

Phát hiện thấy việc chưa có giấy phép khắc và sử dụng con dấu, ông Huấn và bà Thành đã làm đơn tố cáo Trí sử dụng con dấu bất hợp pháp. Ngày 20/5/2008, Công an thủ đô Viêng Chăn ra Thông báo số 018/CA về việc xóa bỏ con dấu của Cty CP Khoáng sản Lào – Việt (ký hiệu L. V. M) với lý do con dấu chưa có giấy phép sử dụng; yêu cầu Công ty mang con dấu nói trên đến nộp cho Nhà chức trách của Công an thủ đô Viêng Chăn để xóa bỏ theo luật định. Tuy nhiên, nhận thông báo, Trí không mang con dấu đến nộp cho nhà chức trách để hủy con dấu mà dùng thủ đoạn tiếp để hợp thức hóa con dấu này.

Theo lời khai của Dương Minh Hải với Cơ quan điều tra: Tháng 6/2008, nhằm hợp thức hồ sơ cho con dấu số 01, bà Mai Dalee đã yêu cầu Hải cung cấp hồ sơ để làm thủ tục xin Cục Quản lý dân cư và Công an bản Lào cấp giấy phép khắc và sử dụng dấu. Hải đã chuẩn bị hồ sơ, giấy tờ để bà Mai Dalee liên hệ với Bộ Công an Lào xin phép khắc con dấu có nội dung giống như con dấu số 01 mà Thái Lương Trí đang sử dụng.
 
Văn phòng Chủ tịch nước chỉ đạo xét xử nghiêm minh vụ án
Văn phòng Chủ tịch nước chỉ đạo xét xử nghiêm minh vụ án

Tiếp đó, để xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, Trí đã giả chữ ký của ông Oong khăm Sivilay tại Hợp đồng liên doanh số 07 ngày 15/6/2006 (bản tiếng Việt). Kết luận giám định số 2104/C21 ngày 23/09/2009 của Viện khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an Việt Nam đã xác định hợp đồng số 07 ngày 15/06/2006 (bằng tiếng Việt) được ký giả chữ ký của ông Oong Khăm Sivilay. Động cơ của Trí ký giả chữ ký ông Oong Khăm Sivilay vào hợp đồng số 07 là để sử dụng vào hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam.

Trên thực tế Công ty TNHH Thái Dương do Thái Lương Trí, Giám đốc Công ty làm đại diện ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty Khai thác Khoáng sản Oong Khăm Sivilay (Lào) theo hợp đồng hợp tác kinh doanh số 02/2004TĐ- Lào ngày 12/11/2004. Theo hợp đồng Trí đầu tư 100% chi phí tìm kiếm, đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu… cho dự án tìm kiếm, thăm dò, khai thác và chế biến quặng thiếc, chì - kẽm bản Huội Chừn, huyện Xầm Tày, tỉnh Hủa Phăn, Lào.

Trong quá trình thực hiện đầu tư dự án, Trí khai khống chi phí đầu tư quá cao với số tiền tính theo thời điểm năm 2006 tương đương 2,2 triệu USD trong khi Nhà nước Lào chỉ xác nhận số tiền 342. 465 USD nên đã gây mâu thuẫn với Công ty Khai thác Khoáng sản Oong Khăm Sivilay (Lào). Từ đó, Oong Khăm Sivilay không muốn hợp tác với Thái Lương Trí. Ngày 25/5/2007, ông Oong Khăm Sivilay làm đơn gửi Chính phủ và Tổng cục Cảnh sát Lào tố cáo Thái Lương Trí làm giả hợp đồng 07 ngày 15/06/2006 giả mạo chữ ký của Oong Khăm Sivilay.

Mặt khác, Thái Lương Trí thường xuyên sử dụng hợp đồng số 02/2004TĐ- Lào ngày 12/11/ 2004 để giao dịch vay tiền ngân hàng Vietcombank chi nhánh TP Vinh Nghệ An và ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với các Công ty khác tại Việt Nam.

Thái Lương Trí làm giả Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty TNHH Thái Dương Nghệ An ngày 19/3/2008 gửi bộ Kế hoạch và đầu tư đề nghị điều chỉnh Giấy phép đầu tư tư ra nước ngoài số 08/BKH – ĐTRNN/ĐC1 ngày 28/5/2008, trong đó có đổi tên Công ty Đại Phú thành Công ty CP Khoáng sản Lào - Việt. Để thực hiện thành công việc này, Trí đã thực hiện 3 hành vi gian dối liên tiếp, loại 2 nhà đầu tư là ông Đoàn Văn Huấn và bà Chu Thị Thành ra khỏi Công ty.

Tại giấy phép đầu tư số 006-08 ngày 08/01/2008 cho Công ty CP Khoáng sản Lào – Việt đã có tên các nhà đầu tư trong đó có ông Đoàn Văn Huấn và bà Chu Thị Thành. Tuy nhiên, đến tháng 5/2008, Trí gian dối giả tên thành viên Công ty tại Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty TNHH Thái Dương Nghệ An ngày 19/3/2008 với 6 người theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đăng ký thay đổi lần 6 ngày 6/6/2006 (Giấy phép đã hết hiệu lực) nộp lừa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam.

Hành vi này của Trí nhằm gạt bỏ tên nhà đầu tư ông Đoàn Văn Huấn và bà Chu Thị Thành ra khỏi Công ty. Trong khi đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có sai lầm là không điều tra xem xét kỹ hồ sơ của Trí mà bị Trí "qua mặt". Chúng ta thấy 3 gian dối của Trí để thực hiện cùng 1 mục đích như nói trên.

Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 28/5/2009, Trí công nhận: “Sau khi được giải thích, đến nay tôi thấy là đúng và bản thân tôi cũng thấy có sai sót trong quá trình làm giấy tờ, tài liệu để trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam xin giấy chứng nhận đầu tư và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Thực tế trong việc này bản thân tôi cũng không phải lừa dối cơ quan tổ chức. Nhưng vì tôi đã sử dụng giấy đăng ký kinh doanh sữa đổi lần thứ 6 ngày 06/06/2006 để lập biên bản họp Hội đồng thành viên thống nhất đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư để điều chỉnh nội dung sửa đổi tên Cty Đại Phú thành Cty CP Khoáng sản Lào - Việt là sai.

Đáng ra tôi phải sử dụng giấy phép đăng ký kinh doanh sửa đổi lần 7 ngày 01/03/2007 mới đúng quy định của pháp luật. Việc tôi lập Biên bản họp Hội đồng thành viên được ghi ngày 19/03/2008 là không đúng với bản chất sự việc, không đúng thực tế. Từ việc làm trên của tôi đã vô tình lừa dối cơ quan, tổ chức mà ở đây là Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam. Việc cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm giam tôi, đến nay tôi hoàn toàn chấp hành không có ý kiến gì khác”.

Tiếp theo, Biên bản hỏi cung bị can ngày 24/6/2009 Trí cũng thừa nhận: “Biên bản họp Hội đồng thành viên ngày 19/03/2008 đã lập nội dung không đúng, không có thành viên nào dự họp. Đáng lý ra tôi phải sử dụng giấy đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ 7 mới đúng …”

Với tất cả các tài liệu, chứng cứ và lời khai nói trên, hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức của Trí và đồng bọn đều đã được làm rõ. Hành vi đó đã hoàn tất trước khi bị ông Huấn, bà Thành phát hiện và báo cáo cơ quan chức năng. Do vậy, mọi lập luận thiếu căn cứ pháp lý và xa rời bằng chứng được thu thập theo trình tự tố tụng đều khiến bản thân ông Huấn, bà Thành và những người có liên quan nghi ngờ về sự bất minh của người cầm cân nảy mực.

Báo Dân trí sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên.

Ban Bạn đọc