Bố chết không để lại di chúc, mẹ có quyền chia tài sản cho các con không?

Hải Hà

(Dân trí) - Bố mẹ tôi kết hôn năm 1960, sau đó mua và tạo lập được mảnh đất trước khi sinh con, và mẹ chỉ để một mình bố đứng tên trong sổ đỏ. Cách đây 2 năm bố tôi mất không để lại di chúc.

Bố mẹ tôi có 4 người con, vậy bây giờ mẹ tôi muốn sang tên mảnh đất để bà đứng tên, sau đó lập di chúc chia đều cho các con thì phải làm thủ tục như thế nào? 

Trả lời:

Mặc dù bạn không nói rõ bố mẹ bạn kết hôn có đăng ký kết hôn hay không. Nhưng do bố mẹ bạn kết hôn năm 1960 thì theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn.

Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Như vậy, theo quy định này, quan hệ giữa bố và mẹ bạn được xác định là vợ chồng.

Và theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng được quy định như sau: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng."

Theo đó, mảnh đất trên được xem là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, do đó cả bố và mẹ bạn đều có quyền đối với thửa đất này. Việc chỉ bố bạn đứng tên trên GCNQSDĐ không làm ảnh hưởng quyền sở hữu đối với thửa đất này của mẹ bạn. Bởi theo quy định tại Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình về việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung như sau:

"1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này". Do đó, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, bố bạn và mẹ bạn được sở hữu ½ mảnh đất.

Tuy nhiên, việc sang tên sổ đỏ để mẹ bạn đứng tên trên toàn bộ mảnh đất là không đúng quy định pháp luật. Bởi ½ mảnh đất thuộc sở hữu của bố bạn. Nay do bố bạn mất nên phần đất này được xác định là di sản thừa kế. Và do bố bạn mất không để lại di chúc, nên di sản này sẽ được chia theo pháp luật, nghĩa là chia cho hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn (bao gồm mẹ bạn, bạn và các anh/chị/em ruột của bạn, ông bà nội ) những phần di sản bằng nhau căn cứ theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.

Vì vậy, nếu mẹ bạn muốn đứng tên trên toàn bộ mảnh đất sau đó chia đều cho các con thì gia đình có thể làm thủ tục nhận di sản thừa kế đối với di sản của bố bạn. Sau đó, mẹ bạn và các con có thể làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với phần đất thuộc sở hữu riêng (½ mảnh đất còn lại) và công chứng. Sau khi chia di sản và chuyển nhượng mảnh đất còn lại, nếu muốn thuận lợi cho việc sử dụng đất, gia đình bạn có thể làm thủ tục gộp thửa nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Luật đất đai 2013.