2 mẹ con bị ép ký giấy vay 6 tỷ: Có dấu hiệu tội cưỡng đoạt tài sản?

Hải Hà

(Dân trí) - Trong vụ chặn đường ép 2 mẹ con lên ô tô, bắt viết cam kết trả nợ hơn 6 tỷ đồng, 4 đối tượng đã bị bắt vì tội giữ người trái pháp luật. Nhiều ý kiến cho rằng cần xử lý cả hành vi cưỡng đoạt tài sản.

Như đã đưa tin, Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An vừa khởi tố 4 đối tượng gồm: Nguyễn Thế Anh (SN 1996), Nguyễn Đức Hậu (SN 1992), Nguyễn Đức Hải (SN 1992) và Nguyễn Đức Thắng (SN 1984) cùng trú tại huyện Diễn Châu để điều tra, làm rõ về hành vi giữ người trái pháp luật.

Các đối tượng này đã có hành vi chặn đường, ép 2 mẹ con bà N.T.N. (SN 1964, trú tại thị xã Hoàng Mai, Nghệ An) lên ô tô, bắt viết cam kết trả nợ hơn 6 tỷ đồng.

Có ý kiến cho rằng đây là hệ lụy của tình trạng cho vay nặng lãi, gây nên những ảnh hưởng lệch lạc cho thanh niên trên mạng và ngoài cuộc sống, khiến bùng phát các tệ nạn ma túy, trộm cướp, đâm chém… rất nguy hiểm.

Cũng có người thắc mắc, rõ ràng ngoài hành vi giữ người trái pháp luật, nhóm đối tượng còn ép 2 mẹ con bà N. ký giấy vay nợ, liệu cơ quan chức năng có xem xét xử lý hành vi này không? Việc ép người khác ký giấy vay nợ có thể bị xem xét xử lý về tội gì? Người bị ép ký giấy vay nợ có phải trả tiền không?

2 mẹ con bị ép ký giấy vay 6 tỷ: Có dấu hiệu tội cưỡng đoạt tài sản? - 1

4 đối tượng tại cơ quan điều tra (Ảnh: V.H.).

Nhìn nhận sự việc dưới góc độ pháp lý, luật sư Nguyễn Thị Xuyến, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho rằng ép ký giấy vay nợ là hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhằm buộc người khác ký xác nhận vào giấy vay nợ với nội dung là đã mượn một số tiền cụ thể nào đó và có thể kèm theo một mức lãi suất. Tuy nhiên, người bị hại không hề vay mượn bất kỳ gì cả nhưng lại bị đe dọa, làm phiền và bị yêu cầu phải trả số tiền đó. Hành vi này là hành vi vi phạm pháp luật.

Người bị ép ký giấy vay vợ có phải trả tiền không?

Theo Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự;

- Các bên tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Trong giao dịch cho vay tiền, việc các bên tự nguyện thực hiện giao dịch là điều kiện quan trọng để giao dịch có hiệu lực. Điều này có nghĩa, nếu giao dịch vay tiền chỉ xuất phát từ một bên, bên còn lại thực hiện do bị ép buộc thì giao dịch sẽ bị vô hiệu. Điều này cũng được ghi nhận tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

Căn cứ tại Điều 127 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Theo đó:

- Trường hợp các bên đã giao nhận tiền vay thì hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, bên bị ép ký giấy vay tiền sẽ trả lại đúng số tiền đã nhận cho bên cho vay, bên cho vay không được đòi thêm khoản lãi vay.

- Trường hợp bên cho vay ép bên vay ký giấy vay tiền nhưng đây chỉ là một khoản tiền khống, không có thật thì bên vay không có nghĩa vụ phải trả, tuy nhiên bên vay cần chứng minh việc ký giấy vay là do ép buộc, đồng thời số tiền vay nêu trong giấy vay tiền chỉ là số tiền khống.

Trường hợp này nếu xét thấy có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành điều tra để truy tố, xét xử người có hành vi ép ký giấy vay nợ để chiếm đoạt tiền.

Như vậy, trường hợp này là giao dịch dân sự vô hiệu, khi đó người bị ép ký giấy vay nợ thì không phải trả số tiền đó.

Xử phạt hành vi ép người khác ký giấy vay nợ khống

Các đối tượng thường đe dọa dùng vũ lực, đe dọa tinh thần hoặc thậm chí dùng vũ lực để ép người khác ký vào giấy vay một khoản tiền khống sau đó dùng giấy tờ này để đòi nợ và chiếm đoạt tiền. Hành vi này cũng là hành vi khách quan trong cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản. Cụ thể, khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01-05 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

- Có tổ chức;

- Có tính chất chuyên nghiệp;

- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

- Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07-15 năm:

- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên;

- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10-100 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Ngoài ra, đối với một số trường hợp bịa đặt vu khống người khác vay mượn tiền không trả làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người đó còn có thể xét về Tội vu khống ( Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), Tội làm nhục người khác (Điều 155 BLHS 2015 được sửa đổi bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017).

Trường hợp có hành vi phạm tội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, người ép người khác vay tiền có thể bị phạt từ 03 - 05 triệu đồng (theo điểm e khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021).

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm