Cách tính lương hưu khi làm công việc nặng nhọc, độc hại

Tùng Nguyên

(Dân trí) - Ông Văn công tác trong nhà máy nhiệt điện, thuộc công việc độc hại, nguy hiểm. Ông không biết lương hưu được tính như thế nào, có khác người làm công việc bình thường hay không?

Ông Văn sinh tháng 6/1970, tham gia đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) từ tháng 7/2003 đến nay với vị trí việc làm là vận hành máy, thiết bị điện trong nhà máy nhiệt điện. Đây là một trong những công việc thuộc danh mục công việc độc hại, nguy hiểm.

Ông hỏi: "Với điều kiện trên thì khi nào thì tôi đủ thời gian nghỉ hưu và lương hưu được tính như thế nào?".

Cách tính lương hưu khi làm công việc nặng nhọc, độc hại - 1

Công nhân nhà máy nhiệt điện được nghỉ hưu sớm hơn tuổi nghỉ hưu quy định (Ảnh minh họa: Nhiệt điện Mông Dương).

Điều kiện nghỉ hưu sớm

BHXH Việt Nam cho biết, điều kiện hưởng lương hưu hiện hành được quy định tại Điều 169 và Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động, Nghị định số 135/2020/NĐ-CP.

Theo đó, kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028 và cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến đủ 60 tuổi vào năm 2035.

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường nếu có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và thuộc một trong bốn trường hợp dưới đây.

Thứ nhất, người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.

Thứ hai, người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021).

Thứ ba, người lao động có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021) từ đủ 15 năm trở lên.

Thứ tư, người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đến dưới 81%.

Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường nếu có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và thêm một trong hai điều kiện sau.

Thứ nhất, có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò.

Thứ hai, bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Người lao động không bị quy định giới hạn về tuổi đời khi đã có đủ 20 năm đóng BHXH và thuộc một trong hai trường hợp sau đây.

Thứ nhất, bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.

Thứ hai, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.

Căn cứ vào quy định trên, ông Văn có thời gian đóng BHXH trên 20 năm (tính liên tục từ tháng 7/2003 đến nay) nên đã đủ điều kiện về thời gian.

Về tuổi, ông Văn làm công việc vận hành máy, thiết bị điện trong nhà máy nhiệt điện thuộc danh mục chức danh nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm nên được nghỉ hưu sớm 5 năm so với tuổi nghỉ hưu quy định.

Như vậy, thời điểm ông Văn đủ điều kiện từ ngày 1/1/2027, khi ông đủ 56 tuổi 6 tháng.

Cách tính lương hưu hằng tháng

Theo BHXH Việt Nam, Điều 56 Luật BHXH năm 2014 và Điều 7 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định mức lương hưu hằng tháng của người lao động được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng nhân với mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.

Tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nam nghỉ hưu từ năm 2022 trở đi được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH tương ứng với 20 năm đóng BHXH; sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.

Tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH; sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.

Trường hợp người lao động nghỉ hưu trước tuổi do suy giảm khả năng lao động thì cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi bị giảm 2%.

Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH để tính lương hưu được quy định tại Điều 62 Luật BHXH năm 2014.

Theo đó, trong trường hợp ông Văn thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này và bắt đầu tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2001 đến ngày 31/12/2006 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Trong trường hợp ông Văn có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian.

Nếu người lao động vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH chung của các thời gian.

Điểm khác biệt lớn nhất trong cách tính lương hưu cho người lao động làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm được quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 9 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP.

Theo đó, trong trường hợp người lao động có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên theo các mức tiền lương thuộc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; sau đó chuyển sang làm công việc khác mà đóng BHXH có mức lương thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy mức lương cao nhất của công việc trước đây hoặc mức tiền lương trước khi chuyển ngành để tính mức bình quân tiền lương làm cơ sở tính hưởng lương hưu.