(Dân trí) - Thời gian giữ cương vị đứng đầu Bộ LĐ-TB&XH với Bộ trưởng Đào Ngọc Dung là những cuộc bám đuổi dài hơi, là nỗ lực thu hẹp dần khoảng cách về chính sách xã hội của Việt Nam với quốc tế...
Nhân dịp xuân mới Ất Tỵ 2025, phóng viên Dân trí có cuộc trao đổi cùng Bộ trưởng về những "cuộc marathon cùng chính sách" của ông gần 10 năm qua.
Năm 2024 khép lại với thành quả ấn tượng đạt được trong 365 ngày liền nỗ lực của cả nước. Ngày cuối kỳ họp Quốc hội (tháng 11 vừa qua), bên cạnh chỉ số tăng trưởng kinh tế như báo cáo của Chính phủ, Bộ trưởng cũng báo tin vui, sau 1 năm, Việt Nam đã được Liên hợp quốc xếp tăng 11 bậc trên bảng xếp hạng hạnh phúc quốc gia. Là một Bộ trưởng "quản" lĩnh vực xã hội, hẳn là ông quan tâm và thấy nhiều ý nghĩa ở con số này?
- Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2024 thể hiện đánh giá về mức độ phát triển bền vững của Liên hợp quốc, được công bố dựa trên kết quả khảo sát 143 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo báo cáo này, Việt Nam đứng thứ 54, cải thiện tích cực so với vị trí 65 của năm 2023. Xét ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng vị trí thứ 6, tính trong ASEAN thì Việt Nam đứng thứ 2. Việc thăng hạng về chỉ số hạnh phúc như vậy đáng mừng lắm.
Bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc này được đưa ra dựa trên các chỉ số cơ bản về tuổi thọ, sức khỏe, thu nhập bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội trong thời kỳ khó khăn, mức độ tham nhũng và lòng tin xã hội. Đây đều là những tiêu chí quan trọng, được quan tâm hàng đầu với những người làm công tác xã hội chúng tôi. Xét cho cùng, đó chính là phép đo những gì người dân được thụ hưởng từ thành quả của sự phát triển - yếu tố đánh giá được đưa vào Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Chỉ số hạnh phúc cho thấy những thay đổi căn cơ sau gần một nhiệm kỳ chúng ta đặt ra đích đến cuối cùng này cho hành trình phát triển.
Kết quả đánh giá khách quan của thế giới cũng tương ứng với những chỉ tiêu đo lường về lĩnh vực xã hội mà Quốc hội giao thực hiện trong năm 2024. Theo đó, chúng ta có một năm mà các chính sách người có công được kể đến là điểm nổi trội, cùng với các chính sách giảm nghèo bền vững dành cho đối tượng yếu thế theo nguyên tắc đảm bảo an sinh tối thiểu, nâng dần các mức trợ giúp xã hội.
Kết quả giảm nghèo bền vững ở mức giảm được 1% và đến nay tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều khống chế được ở mức thấp 1,93%, là cố gắng lớn trong điều kiện thiên tai, lũ, bão liên tiếp xảy ra. 2024 cũng là năm đầu tiên chỉ tiêu về năng suất lao động tăng 5,56%, vượt yêu cầu đề ra.
Như vậy, nói một cách khiêm tốn, khách quan nhất, Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện tốt chính sách xã hội, nhất là so với các nước có điều kiện kinh tế tương đồng. Cuối tháng 10 vừa qua, Việt Nam là quốc gia duy nhất ở châu Á được các nước G7 mời trực tiếp báo cáo điển hình về thực hiện chính sách xã hội, phát huy vai trò người khuyết tật, người yếu thế trong xã hội. Và tại hội nghị G20 tại Brazil hồi tháng 12, Việt Nam cũng được mời báo cáo kinh nghiệm giảm nghèo bền vững và tham gia sáng kiến liên minh toàn cầu về chống đói nghèo.
Trước đó, khi lập kế hoạch năm 2024, trong chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội, Quốc hội và Chính phủ nêu vấn đề phấn đấu giữ được vị trí thứ 65 trên bảng xếp hạng "quốc gia hạnh phúc". Nhưng sau 1 năm nỗ lực, kết quả đạt được hơn cả mong đợi, tăng 11 bậc trong bối cảnh một năm ngổn ngang những khó khăn có mang tới nhiều bất ngờ với Bộ trưởng? Yếu tố nào dẫn tới chỉ số hạnh phúc của Việt Nam thăng hạng như vậy, thưa Bộ trưởng?
- Phải nói là chúng ta bước vào năm 2024 với rất nhiều khó khăn, nhiều vấn đề khó lường trước nhưng nói là bất ngờ thì không. Mục tiêu chúng ta đặt ra ở mức khiêm tốn nhất để phấn đấu, còn cao hơn được thì tốt chứ (cười).
Nhìn chung, có được kết quả đó trước hết là vì năm nay chúng ta lấy lại được sức bật sau giai đoạn khó khăn lớn vì đại dịch Covid-19 kéo dài từ đầu nhiệm kỳ tới nay. Nền kinh tế phục hồi tích cực, tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 7,09%, cao hơn mục tiêu đề ra. Đó là tiền đề tốt cho việc thực hiện các chính sách xã hội.
Lĩnh vực xã hội cũng đạt kết quả rõ nét về cả nhận thức, hành động. Như tôi nói ở trên, an sinh xã hội nhìn chung được bảo đảm, về việc chăm lo người có công, người yếu thế, về giảm nghèo và đặc biệt là năng suất lao động được cải thiện đáng kể.
Người dân Việt Nam an vui hơn về những chương trình hỗ trợ thiết thực của nhà nước. Việc xây dựng nhà ở xã hội đạt kết quả tích cực. Trong thời gian ngắn, cả nước huy động được trên 6.000 tỷ đồng để xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các đối tượng gặp khó khăn. Nhiệm vụ dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2025.
Khi miền Bắc hứng chịu hậu quả của cơn bão số 3, các cơ quan, tổ chức nhà nước đã đứng ra vận động được hàng nghìn tỷ đồng hỗ trợ người dân bị thiệt hại. Trong những lúc khó khăn, gian nan, thử thách đó, tinh thần đại đoàn kết, "tương thân, tương ái", "tình dân tộc, nghĩa đồng bào" đã tỏa sáng mạnh mẽ.
Tại Quốc hội, đại biểu Nguyễn Thiện Nhân phân tích, về thu nhập đầu người, Việt Nam đứng thứ 101/176 nước. Như vậy, so với chỉ số kinh tế đầu người là 101 mà chỉ số hạnh phúc của chúng ta lại vươn lên đứng thứ 54 phản ánh kết quả hết sức đáng trân trọng của lĩnh vực xã hội, là thể hiện tính ưu việt của chế độ.
10 lần liên tiếp tham gia xếp hạng quốc gia hạnh phúc, vị trí của Việt Nam trên "bảng tổng sắp" đã có nhiều thay đổi, từ hạng 95-96 lên lân cận top 50 như hiện nay. Bộ trưởng đã nhiều lần phát biểu, theo đuổi vấn đề này, như không phải cứ thu nhập cao, tăng trưởng nhanh là người dân sung sướng. Bộ trưởng nhận thấy sự thay đổi hướng đánh giá diễn ra như thế nào?
- Chúng ta đều biết "có thực mới vực được đạo", kinh tế phát triển thì nước mới mạnh, quốc gia mới giàu có được. Nhưng kinh tế phát triển phải đi đôi với đất nước yên bình, đời sống người dân khấm khá, ấm no mới là hạnh phúc trọn vẹn chứ không phải cứ nhiều tiền của là hạnh phúc.
Thực tế, từ khi đổi mới, đất nước ta trải qua nhiều thay đổi, biến cố lớn. Tôi từng chứng kiến cuộc sống an vui, hạnh phúc bình dị ngay tại khu tập thể cũ của chúng tôi thời bao cấp nghèo khó. Rồi kinh tế thị trường phát triển với sự quản lý của nhà nước, với quan điểm "lấy con người làm trung tâm, không hy sinh tiến bộ, công bằng để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần" đã làm đổi thay diện mạo đất nước, cuộc sống sung túc hơn hẳn.
Những thay đổi diễn ra ở từng con ngõ, từng góc cầu thang khu tập thể nhưng cũng có nơi vẫn còn tụ điểm tệ nạn, nhiều nhà mất con, gia đình tan vỡ vì cờ bạc, ma túy. Khi đó, với nhiều gia đình, nhiều khu dân cư, hạnh phúc là cuộc sống lành mạnh, bình an chứ không chỉ là vật chất dư dả hơn trước.
Biến cố mới nhất cả thế giới vừa trải qua là đại dịch Covid-19 thì những quốc gia giàu có nhất cũng… khóc. Rõ ràng là không phải cứ thu nhập cao, tăng trưởng nhanh là người dân sung sướng, hạnh phúc. Trong bối cảnh đó, hạnh phúc nằm trong một chữ "an" càng thấm hơn bao giờ hết. Vì vậy mà gần 2 nhiệm kỳ làm Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, tôi đều tâm niệm và làm hết mình vì những chữ "an" đó ("an toàn", "an sinh" và "an dân"). Theo tôi, đó cũng chính là chỉ số về lòng tin, là nội hàm về một quốc gia hạnh phúc.
Thực tế, xem hạnh phúc của người dân như một thước đo mức phát triển và tiến bộ xã hội là chủ trương đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII và tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Điều này cũng đang trở thành xu hướng chung của nhân loại. Hạnh phúc của người dân được xác định là mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội, là khát vọng phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Từ chủ trương ở tầm quản trị quốc gia, tiêu chí hạnh phúc giờ "ngấm" cả vào đời sống lao động. Khái niệm việc làm thỏa đáng, bền vững và hạnh phúc, nơi làm việc hạnh phúc, cách thức đo lường sự phát triển bằng chỉ số hạnh phúc… ngày càng được doanh nghiệp, người lao động quan tâm.
Trở lại với năm 2024, năm áp chót thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, còn vấn đề theo đuổi dài hạn nào tương tự chuyện "chỉ số hạnh phúc" khiến Bộ trưởng băn khoăn?
- Ngoài chuyện an sinh xã hội nói chung, vấn đề những người làm công tác quản lý về lĩnh vực lao động - việc làm và xã hội chúng tôi luôn theo đuổi là làm sao xây dựng, hoàn thiện thị trường lao động đồng bộ, linh hoạt, hiện đại và hội nhập.
Năm 2024, chúng ta triển khai thực hiện Nghị quyết 27 của Trung ương về cải cách tiền lương, Nghị quyết 28 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, sửa Luật Bảo hiểm xã hội, hoàn thiện việc xây dựng thể chế, tạo lập thị trường lao động với tầm nhìn đến 2045. Đây cũng là năm có bước thay đổi lớn về tiền lương khiến người lao động, người dân, người hưởng lương hưu, trợ cấp đều có phần vui mừng, phấn khởi.
Lương khu vực công, dù vẫn chưa thực hiện cải cách được như kế hoạch nhưng cũng đã được điều chỉnh với mức tăng chưa từng có, 30% (lương cơ sở được điều chỉnh từ mức 1,8 triệu đồng/tháng lên 2,34 triệu đồng/tháng). Trợ cấp người có công tăng 35,7%. Lương hưu tăng ở mức 15%. Lương tối thiểu vùng cũng tăng 6%, hoạt động đàm phán lương rất thuận lợi, đạt sự thống nhất cao. Những điều chỉnh đồng bộ này, hàng chục triệu người được thụ hưởng trực tiếp.
Đối với khu vực sản xuất kinh doanh, chúng tôi tự hào là đã sớm xây dựng, hình thành được hệ thống tiền lương theo nguyên tắc thị trường, góp phần vận hành thị trường ổn định và ngày càng "mượt". Lương tối thiểu được áp dụng từ sớm và hoàn thiện qua Bộ Luật lao động các thời kỳ, nhất là Bộ Luật lao động sửa đổi năm 2019, cho tới giờ, định hình được 4 vùng lương, vận hành cơ chế thương lượng lương 3 bên: Nhà nước (đại diện là Bộ LĐ-TB&XH), chủ sử dụng lao động (đại diện là VCCI, Liên minh hợp tác xã, các hiệp hội ngành nghề lớn) và người lao động (đại diện là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam).
Lương tối thiểu vùng tăng 6% trong năm 2024 góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, cũng phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời hoàn thiện một bước cơ chế tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước, góp phần vào việc sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Bộ trưởng nói về "thị trường tiền lương" và kết quả việc xây dựng lương tối thiểu vùng. Thực sự đây cũng là vấn đề ông nhận nhiều chất vấn suốt 2 nhiệm kỳ trên "ghế" Bộ trưởng LĐ-TB&XH. Các đại biểu Quốc hội từng đặt vấn đề có nên ban hành luật lương tối thiểu không. Và câu trả lời của ông mỗi lần rất uyển chuyển nhưng cũng "cứng rắn"?
- Có những đại biểu chất vấn tôi qua nhiều kỳ họp, nhiều nhiệm kỳ đấy (cười).
Có ban hành luật lương tối thiểu không đúng là việc phải cân nhắc, đánh giá tác động kỹ lưỡng. Còn việc xác định mức sống tối thiểu, thiết lập sàn an sinh tối thiểu thông qua lương tối thiểu vùng thì đương nhiên phải làm và phải làm sớm, làm ngay.
Thời gian qua chúng tôi cũng tiếp thu, nghiên cứu nghiêm túc vì lúc này lúc kia lương tối thiểu vùng cũng gây băn khoăn là làm chậm, "ghìm" đà cải thiện lương, không mấy ý nghĩa vì lương doanh nghiệp trả hầu hết đều cao hơn mức quy định… Nhưng tôi xin nói thế này, tiền lương tối thiểu vùng được công bố hàng năm chính là sàn tối thiểu để người lao động và chủ sử dụng thương thảo, thỏa thuận, để thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ lao động, thể hiện được giá trị của sức lao động.
Chúng tôi được thế giới, nhất là tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ghi nhận, đánh giá cao ở chính việc này. Xác lập mức lương tối thiểu và thương lượng tập thể, theo đó, là hai công cụ quan trọng, bổ trợ cho nhau trong hệ thống vận hành tiền lương của một nền kinh tế thị trường. Lương tối thiểu là để bảo vệ những người lao động nghèo nhất, để ông chủ không thể trả họ dưới mức lương để đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu này. Cơ chế thương lượng thông qua hoạt động của Hội đồng tiền lương quốc gia lại đem đến cơ hội điều chỉnh tiền lương cho những người có thu nhập cao hơn mức lương tối thiểu, nâng cao vị thế của người lao động lên ngang bằng với chủ sử dụng trong hoạt động đàm phán lương.
Nguyên tắc chung chúng tôi luôn giữ vững là người lao động và chủ sử dụng lao động thỏa thuận lương trên căn cứ sự phát triển, thu nhập phúc lợi của người lao động, mức lương tối thiểu vùng. Đương nhiên tôi hiểu người lao động ở thế yếu, nên đã nâng cao vai trò 3 bên là cơ quan quản lý nhà nước, đại diện giới chủ và liên đoàn lao động. Theo đó, việc điều chỉnh mức lương dựa trên mức độ tăng năng suất lao động, khả năng chi trả, mức tăng giá cả, thỏa thuận hai bên. Quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động 2019 đã tạo bước tiến rất dài về vấn đề này. Chúng tôi đã nghiên cứu, tiếp thu và giải trình cặn kẽ những vấn đề mới, những khuyến cáo nêu ra một cách cầu thị.
Và thực sự, khi Trung ương ban hành Nghị quyết 27 về cải cách tiền lương (năm 2018), quan điểm này của chúng tôi đã được Trung ương khẳng định. Đó là cơ sở chính trị vững chắc để chúng ta thể chế hóa thành chính sách pháp luật.
Đối chiếu với Nghị quyết 27 của Ban chấp hành Trung ương đảng khóa XII về cải cách tiền lương thì mục tiêu cải cách đối với khu vực doanh nghiệp, để mức lương tối thiểu thực sự đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động đã đạt được chưa, thưa Bộ trưởng?
- Mục tiêu được đề cập trong Nghị quyết 27 của Trung ương là đảm bảo tiền lương phản ánh đúng chi phí của sức lao động và được chi trả phù hợp với giá cả sức lao động của thị trường. Chúng tôi đã bám sát quan điểm này để cụ thể hóa trong Bộ luật Lao động 2019. Điều 91 Bộ luật quy định rõ, "mức lương tối thiểu là mức lương thấp nhất được trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường bảo đảm mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội".
Tất nhiên để đúng mong muốn và phản ánh biến động nhanh chóng của thị trường và giá cả thì chưa nhưng khách quan mà nói, lương khu vực doanh nghiệp đã tiếp cận thị trường, sớm đi trước một bước và tiếp cận đời sống nhanh hơn. Chuyện áp lực cuộc sống ngày càng tăng của người lao động, chúng tôi rất hiểu. Tuy vậy, ở khu vực công, cán bộ công chức của chúng tôi còn đang mong lương tiệm cận được như khu vực doanh nghiệp.
Nói chung về thực tế triển khai, các mức lương tối thiểu theo 4 vùng, theo tháng, theo tuần và theo giờ được đánh giá là phù hợp với thực tế, vừa góp phần cải thiện đời sống người lao động nhưng không gây tác động tiêu cực cho doanh nghiệp và nền kinh tế, được người lao động và cộng đồng doanh nghiệp cơ bản đồng tình, ủng hộ.
Theo tôi, hiện nay cũng như trong giai đoạn tới, tiền lương tối thiểu vẫn đóng vai trò quan trọng trong chính sách tiền lương, là động lực thúc đẩy tăng trưởng tiền lương và an sinh xã hội.
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng về cuộc trao đổi thẳng thắn và hữu ích. Chúc cho những nỗ lực của Bộ trưởng và toàn ngành tiếp tục được phát huy, góp phần đưa Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới!