Bạn đọc viết

Lại cùng trao đổi về điện hạt nhân

Tôi chỉ mong là một khi đã rõ con đường đi rồi, thì mong chúng ta cần có quyết tâm, lãnh đạo có quyết đoán, huy động trí tuệ của các nhà khoa học, các nhà quản lý và sự ủng hộ sáng tạo yêu nước của toàn dân, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng nhà máy ĐHN và tiến tới mục tiêu làm chủ công nghệ.

 

Minh họa: Ngọc Diệp
Minh họa: Ngọc Diệp

>> Điện hạt nhân, phải cân nhắc kỹ

Năm hết Tết đến nhà nào cũng bận, nên khi thấy bài trên dantri.com.vn với tiêu đề “điện hạt nhân-phải cân nhắc kỹ” đăng ngày 30/12, tôi nghĩ tác giả đã không quản ngại thời gian có lòng quan tâm một vấn đề khoa học công nghệ cao mà không phải nhiều người đều nắm rõ. Xem nội dung và vai trò của người viết, tôi đoán là ông muốn tạo cơ hội trao đổi rộng rãi trên công luận để tăng thêm thông tin đa chiều, giúp mọi người hiểu và nắm vững hơn một chủ trương lớn của Nhà nước. Tôi nguyên là một phó tiến sĩ toán-lý, chuyên ngành khoa học công nghệ hạt nhân và đã hoạt động liên tục hơn 40 năm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (NLNT). Trong đó tôi có nhiều năm làm trực tiếp với hạt neutron trong lò phản ứng hạt nhân, biết khá rõ vấn đề an toàn bức xạ, về tác động cả tốt và xấu của phóng xạ lên cơ thể sống. Với kinh nghiệm và hiểu biết của mình, tôi muốn góp thêm tiếng nói cho cuộc thảo luận này để bổ sung thông tin và kiến thức tối cần thiết về NLNT trong cộng đồng.

Về nguyên tắc, tôi đồng tình với ý kiến của tác giả là ta phải thận trọng khi chuẩn bị và tiến hành xây dựng điện hạt nhân (ĐHN). Cũng chính vì vậy mà cách đây hơn 40 năm khi được gợi ý lựa chọn bắt đầu xây dựng một nhà máy ĐHN hay là xây thủy điện có công suất tương đương với sự tài trợ toàn diện của Liên Xô  thì ta đã chọn bắt đầu từ thủy điện Hòa Bình, trong khi Cu Ba nhờ Liên Xô xây một lò ĐHN. Mặt khác ta cũng đề nghị bạn giúp ta khôi phục lò Đà Lạt để nghiên cứu và chuẩn bị lâu dài về NLNT. Cố Giáo sư Nguyễn Đinh Tứ, viện trưởng Viện NLNTQG là người sáng lập và lãnh đạo chương trình đưa ĐHN vào Việt Nam. Ông mất đã tròn 20 năm rồi, nhưng tôi còn nhớ rõ những bước triển khai rất khoa học, thận trọng, nhưng cũng đầy quyết tâm của ông từ những năm 1980. Ngay trước khi mất, ông chủ trì nghiệm thu đề tài cấp nhà nước KC-09-17 do Giáo sư Cao Chi làm chủ nhiệm với kết luận là sau năm 2015 chúng ta sẽ khai thác hết tiềm năng thủy điện lớn, trong khi  nguồn khai thác dầu mỏ, khí đốt cũng chạm đến giới hạn, than nội địa vẫn còn nhưng không đủ đáp ứng tăng trưởng; như vậy muốn phát triển tiếp thì phải nhập khẩu than và xây nhà máy ĐHN như một thành tố năng lượng mới trong một hệ thống cân đối hài hòa với các nguồn truyền thống. Có thể có người chưa đồng tình với dự báo về ĐHN, nhưng tình trạng các nguồn khác đến hôm nay diễn ra rất đúng so với dự báo.  Điều đó chứng tỏ tính nghiêm túc khoa học trong nghiên cứu quy hoạch cách đây 20 năm. Sau khi kết luận này được các đề tài khác kiểm chứng tái khẳng định, trong đó có kết quả của các nhà công nghệ -  kinh tế Bộ Công nghiệp, năm 2002, Thủ tướng đã chính thức cho khởi động lập Chiến lược phát triển NLNT Việt Nam và nghiên cứu dự án tiền khả thi xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên. Ngày 25/11/2009 Quốc hội thông qua Nghị quyết số 41 khởi động tiến trình xây dựng ĐHN ở nước ta. Trong 6 năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo sát sao, khẩn trương và quyết tâm thực hiện dự án đầu tiên tại Ninh Thuận. Không chỉ vậy, chấp hành Nghị quyết Quốc hội, đặc biệt sau vụ tai nạn hạt nhân Fukushima, Chính phủ đã rất cẩn trọng trong các bước khảo sát địa điểm, thẩm định dự án khả thi, trong đó nhấn mạnh điều kiện tiên quyết đảm bảo an toàn hạt nhân. Đến nay chúng ta đã chọn được công nghệ AES-2006 hiện đại và an toàn nhất của Liên bang Nga và đang tiếp tục các bước thẩm định an toàn hạt nhân và đánh giá tác động môi trường trước khi xúc tiến xây dựng nhà máy. Tôi nhận thấy từ sau khi đất nước thống nhất, chúng ta dần dần làm chủ được một số công nghệ cao có quy mô lớn mà trước đó nhiều người hoài nghi không tin có thể làm được. Đó là: xây cầu lớn, các xa lộ cao tốc, các nhà cao tầng, xây dựng thủy điện lớn, tự chế các giàn khoan dầu khí tiến ra thềm lục địa, ứng dụng công nghệ thông tin và cập nhật internet nhanh đến chóng mặt, làm chủ các phương tiện quân sự hiện đại nhất nhằm bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Thành công đó cho thấy người Việt mình nếu đồng lòng nhất trí, có sự chỉ đạo định hướng đúng thì cũng có thể làm những việc không nhỏ, đưa Tổ quốc dần đi lên sánh vai với các cường quốc năm Châu như Cụ Hồ năm 1945 từng kỳ vọng.  Cũng phải nói rằng chưa có công nghệ nào kể ở trên mà phức tạp và nhiều thách thức như ĐHN, vì vậy cuộc cân nhắc thận trọng đã phải kéo dài nhất,  hơn 30 năm tính đến khi có Nghị quyết 41 của Quốc hội.

Tôi hoàn toàn đồng tình là phải có biện pháp triệt để tiết kiệm điện. Hiện nay trong Quy hoạch điện 7, ta đang có cả một kế hoạch nâng cấp lưới điện quốc gia để giảm hao tổn đường truyền. Cần lưu ý rằng sự hao tổn điện năng lớn nhất không phải ở chỗ bật tắt chiếu sáng và mấy thiết bị dân sinh, mà chủ yếu là từ các dây chuyền công nghệ lạc hậu tiêu tốn năng lượng. Chúng ta làm “công nghiệp hóa” với định hướng “hiện đại hóa” chính là để thay thế những công nghệ cũ và tiến tới một nền công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên quá trình “tiết kiệm điện” này đòi hỏi chi tốn những gói đầu tư khủng để mua công nghệ, lại cần nhiều thời gian để tái đào tạo nhân lực, cho nên khái niệm tiết kiệm không thể đơn giản hóa là giáo dục ý thức trong phút chốc giảm tổn hao được vài mươi phần trăm điện như ước mơ.  Bên cạnh tiết kiệm còn có yếu tố sống còn là phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng phải có công nghệ sạch, an toàn cho môi trường và con người. Xét khía cạnh này thì ta phải cố gắng phát huy tiềm năng của một nước được kỳ vọng nhiều gió, nhiều nắng cũng như các năng lượng tái tạo khác. Theo tôi được biết trong dự kiến cập nhật điều chỉnh Quy hoạch điện 7 sắp tới, các cơ quan tham mưu đã đặt mục tiêu tối đa phát triển năng lượng tái tạo, dù phải dựa vào chính sách đặc thù để trợ giá trong giai đoạn đầu. Ta cũng đừng quên là ngoài giá thành cao chưa thể hạch toán cạnh tranh thì điểm yếu của năng lượng tái tạo là công suất phát điện manh mún, không ổn định vì rất phụ thuộc vào thiên nhiên, cho nên nó chỉ có thể bổ sung, nhưng không thay thế các năng lượng truyền thống.

Tôi cũng xin cung cấp thêm một số thông tin và kiến thức sau đây:

Nhà máy ĐHN không thể tạo ra một vụ nổ hạt nhân như bom nguyên tử, vì nhiên liệu trong lò chỉ có độ giàu dưới 5%. Thiết kế cơ cấu bom nguyên tử cần có tỉ lệ nhiên liệu làm giàu trên 90%. Các vụ tai nạn nghiêm trọng nhất như Chernobyl (Liên Xô), Fukushima (Nhật bản) là do nóng chảy nhiên liệu, dẫn tới phản ứng hóa học gây nổ áp lực hơi nước và khí hydro, không phải là vụ nổ hạt nhân. Đáng ngại là cháy nổ hóa học có thể gây rò rỉ phát tán phóng xạ ra môi trường. Lò Chernobyl không có thùng thép chịu áp lực nên các chất phóng xạ bị vụ nổ phát tán rộng vào khí quyển. Ở Fukushima thì tuy nổ hydro nhưng nhờ có thùng lò áp lực nên nhiên liệu vẫn giữ được trong lò, chỉ có một lượng khí và ion phóng xạ rò rỉ theo khí và nước ra ngoài, nhưng lượng này nhỏ hơn hẳn so với ở Chernobyl. Hiện nay trừ vài điểm ô nhiễm đặc biệt,  mức phóng xạ không khí quanh Fukushima ở bán kính vòng ngoài nhà máy cũng chỉ nằm trong mức thăng giáng của phông phóng xạ tự nhiên mà con người vẫn hấp thụ hàng ngày. Người ta đã có thể xuất rau quả trồng ở tỉnh này đi tiêu thụ ở các nơi. Trong vụ nóng chảy tâm lò ở TMI (Mỹ) thì vỏ thép thùng lò đủ khả năng giữ phóng xạ bên trong, hầu như không phát tán ô nhiễm ra môi trường. Các lò hiện đại như công nghệ AES-2006 của Nga có thể đảm bảo giữ nhiên liệu trong thùng lò hoặc thu gom trong bình chứa dưới đáy lò, không cho rò rỉ ra môi trường. Tai nạn phóng xạ đúng là đã gây tổn thất lớn trong vụ Chernobyl. Nhưng sự thật về số thương vong là hơn 30 người chết do nhiễm nặng phóng xạ trong những ngày cứu nạn. Sau này có thêm những người cũng chết sớm trong vài năm tiếp theo có dấu hiệu do bị nhiễm xạ  khá cao, nhiều người mất khả năng lao động và phải nghỉ hưu sớm. Đây thật sự là những nạn nhân phóng xạ. Đến nay, những hậu quả về sức khỏe vẫn còn đeo đẳng phải tiếp tục giải quyết ở các vùng ô nhiễm quanh Chernobyl. Tổn thất này không thể coi nhẹ, nhưng cũng nên thử so sánh với các tai nạn trong công nghiệp điện than và khai thác hầm lò, người chết và tàn phế do hút thuốc lá, chết vì tai nạn giao thông v.v. Có những nguồn tin nói rằng trong 10-20 năm sẽ có hàng chục đến hàng trăm nghìn người đã và sẽ chết do hậu quả phóng xạ Chernobyl, chủ yếu do tăng đột biến tỉ lệ ung thư. Thật ra đây chỉ là các con số suy diễn, nhưng không có cơ sở khoa học. Ở Chernobyl số trẻ sinh ra sau này bị bệnh tuyến giáp tăng khoảng 2 lần so với mức trung bình trước khi có vụ tai nạn, còn về tăng tỉ lệ quái thai thì chưa thấy có con số thống kê nào khác biệt. Trong khoảng 600 nghìn nhân viên và binh sĩ tham gia xử lý hậu quả Chernoby và họ bị liều chiếu cao đến sát mức ngưỡng cho phép, theo dõi suốt 20 năm cho đến nay vẫn không thấy có sự tăng trội tỉ lệ mắc ung thư. Còn ở Fukushima không có ai bị chết trực tiếp do tai nạn phóng xạ. Sau 4 năm thấy có một nhân viên chết ung thư, nhưng khó có thể coi đó là tỉ lệ khác biệt so với mức thông thường. Người dân trong vùng chỉ bị liều chiếu xạ thấp hơn nhiều so với các nhân viên làm việc trong nhà máy.

Chất thải phóng xạ được cô đặc và cất vào một chỗ quản lý nghiêm ngặt. Trong chế độ kho bảo quản dài hạn hiện nay,  chúng không thể là bom nổ chậm. Hơn nữa nếu nhiên liệu hạt nhân sau khi đốt được xử lý, chiết tách thì còn có nhiều chất quý hơn vàng được thu hồi, lượng chất thải độc hại còn lại chỉ không bằng 10% lúc trước, như thế thì công nghệ xử lý và chôn cất chất thải trong tương lai rất hiệu quả. Pháp là nước đi tiên phong thương mại hóa tái chế nhiên liệu đã qua sử dụng. Các nước cũng đang thử khả năng bắn chùm laser hạt nhân (chùm bức xạ từ máy gia tốc) để phá vỡ các chất thải phóng xạ độc hại vốn tồn tại hàng vạn năm, bắt chúng chỉ còn sống ngắn trong vòng đời của con người, như vậy thì có thể quản lý và tiêu hủy, không để lại hậu họa cho con cháu chúng ta.

Về vấn đề giá thành ĐHN: việc hiện đại hóa công nghệ với độ an toàn cao hơn hàng trăm lần so với trước kia chắc chắn làm tăng vốn đầu tư lớn hơn. Tuy nhiên các công nghệ này có thể đạt hiệu quả kinh tế, nếu hạch toán đầy đủ các chi phí trực tiếp, gián tiếp. Có mấy loại chi phí còn cần làm rõ: chi phí tháo dỡ nhà máy, phí quản lý hoặc chôn chất thải phóng xạ cao. Các chuyên gia kinh tế ĐHN quốc tế cho biết là nó không tốn kém bằng chi phí đầu tư xây dựng như người ta lo ngại. Xét về vấn đề biến đổi khí hậu thì ĐHN gần như là nguồn lớn nhất và vận hành ổn định nhất mà không phát thải khí nhà kính. Trung Quốc và Ấn Độ có tham vọng trong 15-20 năm nữa sẽ vượt lên hàng đầu thế giới về tổng số nhà máy ĐHN họ định xây dựng, bởi vì đó là cứu cánh quan trọng nhất giúp họ thoát ra khỏi bầu khí quyển đầy dioxit cacbon và mù mịt do ô nhiễm sol khí từ công nghiệp đốt than.  Đức tuyên bố dừng ĐHN, nhưng các nước như Mỹ, Nga, Anh đang tiếp tục xây các nhà máy ĐHN mới, vì ngoài vấn đề chống biến đổi khí hậu, họ tin chắc là có thể hạch toán đảm bảo hiệu quả kinh tế. Một dự án dù vốn lớn đến mấy, nhưng có nguồn vay tín dụng hợp lý, có thể cân bằng thu chi, thì không phải là nguồn nợ công xấu. Chúng ta không ngại vay trong trường hợp đó và cũng không vì thế mà sợ ảnh hưởng đến độc lập, chủ quyền. Cung ứng nhiên liệu hạt nhân giờ trở thành thương mại phổ biến, có nhiều lựa chọn cạnh tranh. Độc lập không có nghĩa là không hội nhập. Các nước lớn nhỏ hiện nay đều phải lệ thuộc nhau và đều có vai trò tương tác lẫn nhau, miễn sự hợp tác, vay trả có lợi cho tất cả các bên.

Có nhiều vấn đề rất thú vị, nhưng chưa thể đề cập ngay trong một bài ngắn. Tôi chỉ mong là một khi đã rõ con đường đi rồi, thì mong chúng ta cần có quyết tâm, lãnh đạo có quyết đoán, huy động trí tuệ của các nhà khoa học, các nhà quản lý và sự ủng hộ sáng tạo yêu nước của toàn dân, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng nhà máy ĐHN và tiến tới mục tiêu làm chủ công nghệ.

Võ Văn Thuận