Nguy cơ khủng hoảng đáng lo hơn lạm phát
Vấn đề đáng quan tâm nhất lúc này của Việt Nam có lẽ không phải là lạm phát, mà là tìm cách tránh nguy cơ một cuộc “khủng hoảng tài chính tiềm ẩn”.
Những tín hiệu xấu
Thâm hụt thương mại của Việt
Tính đến hết quý I/2008, Việt
Quan trọng hơn, nhập siêu đang gia tăng trong bối cảnh nguồn tài trợ vốn vào Việt
Dự báo năm 2008, thâm hụt vãng lai sẽ tăng mạnh theo thâm hụt thương mại, đạt khoảng 15% GDP vào cuối năm 2008. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đây là mức đáng báo động, và là dấu hiệu khủng hoảng của hầu hết các nước châu Á năm 1997.
Dấu hiệu “Thái lan 1997”
So sánh với tình hình Thái Lan giai đoạn cuối năm 1996 đầu 1997, trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính Đông Á, ta thấy Việt Nam hiện đang chứa một số dấu hiệu khá tương đồng.
Tăng trưởng nóng sau một thời gian dài, GDP tăng trung bình > 8%. Tại Thái Lan nền kinh tế phát triển mạnh thành tình trạng bong bóng khi được bơm bởi các nguồn vốn “nóng”.
Dòng vốn ngoại đổ vào mạnh do hấp dẫn về lãi suất và lợi nhuận. Tại Thái Lan vốn đặc biệt đổ vào đầu tư tư nhân nội địa, tiềm ẩn nhiều rủi ro khi chảy quá nhiều vào những lĩnh vực có tính đầu cơ cao như bất động sản (BĐS) và xây dựng văn phòng.
Vốn ngắn hạn nước ngoài chiếm phần lớn: Tại Việt
Bong bóng bất động sản: rủi ro tiềm tàng lớn nhất, khi khủng hoảng sẽ tác động trực tiếp lên hệ thống tài chính ngân hàng khi hàng loạt người vay mất khả năng trả nợ. Tại Việt Nam hiện nay cho vay BĐS chiếm trên 10% tổng tài sản ngân hàng, song BĐS thế chấp lên tới 50-60% tổng tài sản ngân hàng.
Thâm hụt thương mại ngày càng lớn do nhu cầu nhập khẩu tăng trong khi xuất khẩu sụt giảm. Tại Thái Lan và các nước Đông Á xuất khẩu sụt giảm do bị cạnh tranh khốc liệt từ phía Trung Quốc. Hơn nữa việc neo tỉ giá vào USD trong lúc đồng USD lên giá càng làm giảm sự cạnh tranh đối với xuất khẩu.
Cơ chế tỷ giá cố định, neo theo đồng USD. Điều này làm cho công cụ chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả theo quy tắc “bộ ba bất khả thi” trong lý thuyết tiền tệ, đặc biệt trong trường hợp dòng vốn nước ngoài không ổn định
Sự khác nhau đáng chú ý nhất giữa Việt
Đây có thể coi như là Việt
Các nguồn vốn tài trợ
Một trong những nguồn đặc biệt quan trọng là nguồn vốn gián tiếp (FII). Đây là nguồn vốn ngắn hạn đầu tư chủ yếu qua các Quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt
Nguồn vốn này càng được lưu tâm hơn khi mà tất cả các dòng vốn khác không thể đáp ứng kịp tốc độ thâm hụt thương mại của Việt
Dòng vốn FII chảy mạnh vào Việt
Cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một số liệu chính xác về dòng vốn FII. Tính đến cuối năm 2007, số liệu của IMF và CEIC ước tính nguồn vốn này khoảng 6-6.5 tỷ USD, và tăng đặc biệt mạnh trong năm 2007.
So sánh với lượng vốn FDI ròng giải ngân, có thể thấy vốn FII đã vượt xa và là nguồn tài trợ chính cho lượng thiếu hụt ngoại tệ của Việt
Một vấn đề của dòng vốn FII là sự phản ứng rất mạnh với tính ổn định cũng như minh bạch của chính sách điều hành vĩ mô tại nước sở tại. Đây có lẽ là nguy cơ lớn nhất mà Việt
Bên ngoài những tích cực, tính tiêu cực của dòng vốn này nằm ở chỗ, với chỉ mục tiêu kỳ vọng lợi nhuận và khả năng quy mô và linh động cao, dòng vốn này sẽ tận dụng những khe hở thiếu kinh nghiệm và khả năng quản lý còn yếu của Việt Nam để kiếm lợi nhuận nhanh, đầu cơ chèn ép thị trường.
Lạm phát đã không còn là câu chuyện của riêng Việt
Cùng với tình trạng thiên tai, dịch bệnh trong nước, giá cả hàng hóa đã không ngừng tăng lên. Lạm phát do đó đã chứa đựng yếu tố khách quan và xu thế. Các yếu tố chủ quan của con người sẽ chỉ giải quyết được một phần của vấn đề. Không nên quá duy ý chí để rồi sử dụng “quá liều, giật cục” công cụ của mình để kỳ vọng lên những kết quả mà nó nằm ngoài tầm kiểu soát của chúng ta. Có như vậy mới tránh được sự “bất ổn định” trong chính sách điều hành, làm méo mó sự phát triển tự nhiên của nền kinh tế.
Ths Tống Minh Tuấn
(Chuyên gia kinh tế VNDS)
Theo Cafe F