Ký ức về những trận đánh mở đường của cựu biệt động thành Huế
(Dân trí) - Sau khi hạ mục tiêu, ông Ngọc và đồng đội rút vào khu vực ẩn nấp, chia nhau rít từng hơi thuốc để trấn an tinh thần, trên đầu, những làn đạn bay tới tấp, rực sáng cả bầu trời.

"Nếm mật nằm gai" chiến đấu với quân thù
Những ngày này, khắp các đường phố Huế rực rỡ sắc màu cờ, hoa, chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng quê hương. Trong không khí hào hùng của tháng 3 lịch sử, chúng tôi có dịp tiếp xúc với ông Nguyễn Huy Ngọc, cựu chính trị viên đơn vị Biệt động cánh Bắc thành phố Huế, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (giai đoạn 2000-2008), nghe những chia sẻ về cuộc kháng chiến mà chính ông là người cầm súng.
"Đất nước và quê hương đạt được những thành tựu như ngày hôm nay, nhân dân có cuộc sống hòa bình, hạnh phúc bởi đã chứa đựng sự hy sinh vô cùng to lớn của một thế hệ - thế hệ hầu như chỉ biết đến đói rét, bệnh tật, hy sinh...", ông Ngọc bắt đầu câu chuyện với tấm lòng tri ân, hướng về những đồng chí, đồng đội năm xưa đã ngã xuống để giành độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước.

Ông Nguyễn Huy Ngọc, cựu chính trị viên đơn vị Biệt động thành ở cánh phía Bắc Huế (Ảnh: Vi Thảo).
Cách đây 57 năm, chàng thanh niên Nguyễn Huy Ngọc, khi đó mới 18 tuổi, quê xã Hương Thái (nay là phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà, thành phố Huế) đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, quyết định đi theo tiếng gọi của trái tim, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đến năm 20 tuổi, ông đã là xã đội trưởng xã Hương Thái, chỉ huy hàng trăm du kích địa phương đánh địch khắp vùng ven thành phố Huế.
Cuối năm 1971, ông Ngọc được cấp trên rút về làm Chính trị viên đơn vị Biệt động cánh Bắc thành phố Huế, chuyên đánh vào các sào huyệt, cơ quan đầu não, kho tàng của địch ở quận Thành Nội. Khoảng thời gian này, ông Ngọc cùng các đồng đội đã tham gia đánh nhiều trận khiến kẻ thù khiếp sợ, có lần bắn rơi một máy bay địch, bắt sống phi công người Mỹ.

Ông Nguyễn Huy Ngọc (ngoài cùng bên phải) và các đồng đội thời trai trẻ (Ảnh: Nhân vật cung cấp).
Để lọt vào nội thành đánh địch, có những lần ông Ngọc và đồng đội phải nằm phục cả ngày giữa cánh đồng lúa hay trong các lùm cây, bụi cỏ, trên đầu nắng như đổ lửa. Có thời gian, đơn vị ông về bám làng hoạt động, ban ngày phải nằm dưới hầm bí mật, chịu biết bao gian nan, cực khổ. Khi màn đêm buông xuống, những chiến sĩ biệt động lại mở cửa chui lên, luồn vào các khu trung tâm để đánh địch.
"Một ngày ở dưới hầm nó dài và cực khổ vô cùng, ăn, ngủ, vệ sinh đều diễn ra trong không gian vừa chật chội lại đầy mùi hôi thối", ông Ngọc nhớ lại.
Điều bất ngờ là người đào hầm che giấu lại chính là cụ Nguyễn Đình Kế, ông nội của ông Ngọc, khi đó đã 79 tuổi. Trong những năm tháng chiến tranh đói khổ, cụ Kế cũng đã nuôi giấu nhiều cán bộ giữ vai trò quan trọng của cách mạng.
Theo lời kể của ông Ngọc, hàng ngày, cụ Kế ngồi bên ngoài vừa canh phòng vừa đan rổ rá, gửi người quen mang ra chợ bán lấy tiền mua tôm khô về trộn với quả vả cho cháu và những người lính biệt động ăn lấy sức đi đánh trận.
"Khi có lính ngụy đi càn, ông nhảy lên giường, đem phân trâu, phân người vứt vương vãi khắp nhà. Kẻ địch nhìn thấy cảnh ấy thì nôn thốc, nôn tháo bỏ đi", chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, nhưng ký ức thời "nằm gai nếm mật" vẫn vẹn nguyên trong tâm thức người cựu binh năm nay đã gần tuổi 80.
Những trận đánh mở đường đưa đại quân vào giải phóng Huế
Cuối năm 1974, đơn vị Biệt động cánh Bắc thành phố Huế về đóng quân tại khu vực Đồng Chầm, dưới chân đồi 365 (nay thuộc địa bàn phường Hương Hồ, quận Phú Xuân). Cấp trên giao cho ông Ngọc và đồng đội chuẩn bị các tuyến hành lang vào nội thành, nghiên cứu phương án đánh các cơ sở của địch, bảo vệ tuyến huyết mạch từ vùng núi về đồng bằng.

Các điểm cao ở phía Tây thành phố Huế, nơi đơn vị ông Ngọc từng đóng quân và chiến đấu mở đường cho đại quân tiến về đồng bằng (Ảnh: Vi Thảo).
Sau Tết Ất Mão, gần ngày kỷ niệm thành lập Đảng 3/2/1975, quanh khu đồi 365, thám báo, biệt kích địch tăng cường lùng sục, chúng cài mìn định hướng khắp nơi, khiến ta gặp nhiều tổn thất.
Chiều 3/2/1975, tổ trinh sát của biệt động thành ở cánh Bắc Huế phát hiện một tiểu đội thám báo địch đóng quân cách đơn vị khoảng 100m. Ban chỉ huy đơn vị hạ quyết tâm tiêu diệt nhóm quân địch này để "dọn sạch" đường hành quân và lập chiến công chào mừng ngày thành lập Đảng.
Rạng sáng hôm sau, 2 phát B40 khai hỏa, mở màn cho cuộc chiến chớp nhoáng. Chỉ trong thời gian ngắn, toàn bộ quân địch đã bị hạ, ta thu về thêm nhiều súng ống, đạn dược.
Tinh thần lên cao, từ đầu tháng 3/1975, ông Ngọc và các đồng đội đã tổ chức nhiều trận đánh vào các đơn vị địch chốt gần khu vực Đồng Chầm, đồi 365, tiêu diệt sinh lực địch, mở ra cánh cửa để quân ta tiến về thành phố Huế.

Khu vực cầu An Hòa, nơi diễn ra trận đánh gây tiếng vang lớn của các chiến sĩ biệt động thành trong chiến dịch giải phóng Thừa Thiên Huế năm 1975 (Ảnh: Vi Thảo).
Ngày 5/3/1975, tiếng súng tiến công của quân và dân ta đồng loạt nổ ra trên khắp chiến trường Thừa Thiên Huế, chính thức mở màn chiến dịch giải phóng.
Hai ngày sau, đơn vị của ông Ngọc nhận nhiệm vụ đánh vào Phân chi khu Hương Sơ, đồn cảnh sát An Hòa trên Quốc lộ 1, ngay cửa ngõ phía Bắc thành phố Huế. Đây là nhiệm vụ quan trọng và hết sức nặng nề đối với đơn vị, bởi phải "xuyên thủng" tuyến phòng ngự được bố trí chốt chặn dày đặc của địch.
Thời điểm này, kẻ địch cũng tăng cường nhiều chốt chặn ở các ngã đường dẫn về Huế. Đêm nào, các đội công tác, mũi tiến công của ta cũng gặp phục kích, vấp mìn, hy sinh và bị thương khá nhiều. Riêng đơn vị Biệt động thành cánh Bắc Huế cũng phải tiến quân 3 lần mới hạ được mục tiêu cấp trên giao cho.
"Trong lần thứ 2 đi về đánh mục tiêu, anh em vừa tới Rú Bắp (làng Trúc Lâm, phường Hương Long, quận Phú Xuân ngày nay) bị đại đội nhảy dù địch phục kích. Sau loạt đạn của kẻ thù, người đi đầu hy sinh, toàn đội nhanh chóng tìm chỗ ẩn nấp, tập trung bắn trả. Riêng tôi bắn 6 quả đạn M79, tiêu diệt bộ phận chỉ huy và truyền tin của địch. Khi tiếng súng tắt hẳn, anh em mới tiến lên đưa hài cốt liệt sỹ lui về hậu cứ chôn cất", ông Ngọc thuật lại.

Các lực lượng của ta tiến vào nội thành Huế từ nhiều hướng (Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Huế cung cấp).
Với quyết tâm hạ bằng được mục tiêu đã định, đêm 21, rạng sáng 22/3/1975, đơn vị Biệt động cánh Bắc thành phố Huế chia thành 3 tổ, hướng thẳng về Phân chi khu Hương Sơ. Ông Ngọc mang theo khẩu M79 quen thuộc, cùng 18 quả đạn, chỉ huy tổ số 1 với nhiệm vụ đánh vào trụ sở của địch. Tổ thứ 2 làm nhiệm vụ đánh đồn cảnh sát ở cầu An Hòa và một tổ dự bị để đưa thương binh, liệt sỹ rút lui.
Đêm ấy, các chiến sĩ về đến gần trụ sở Phân chi khu Hương Sơ, nhưng trời tối nên không nhìn thấy mục tiêu. Ông Ngọc lấy pháo sáng thu được, bắn lên rồi hô to: anh em nhìn thấy mục tiêu nhắm bắn. Lập tức, các khẩu B40, B41, AK đồng loạt nhả đạn vào trụ sở của địch, khiến chúng không kịp trở tay.
Hạ mục tiêu xong, chỉ huy đơn vị tập hợp lực lượng, ra lệnh rút lui về căn cứ. Đến đoạn Cống Chém, trước ga An Hòa, toàn đội đi vào trong khu vực lăng mộ ẩn nấp, chia nhau rít từng hơi thuốc để lấy lại tinh thần. Trên đầu, các loại đạn pháo của địch bay về hướng cầu An Hòa tới tấp, rực sáng bầu trời. Cả đội ngồi đợi đến gần sáng thì chạy một mạch về đồi 365 an toàn.
Ông Ngọc kể đây là trận đánh đã tạo tiếng vang lớn, hoàn thành mục tiêu mở đường để đại quân tiến vào thành phố, đồng thời giúp cổ vũ, động viên phong trào quần chúng, kêu gọi người dân đứng lên đấu tranh giành chính quyền và khiến kẻ thù sợ hãi, rút chạy nhanh hơn.

Quân giải phóng tiến vào Ngọ Môn, Đại nội Huế (Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Huế cung cấp).
Tiếp đà thắng lợi, đêm 22/3/1975, chiến sĩ biệt động lại xuống núi, hỗ trợ các đơn vị tiến đánh Chi khu quân sự Hương Trà, trung tâm chống phá cách mạng và là điểm chốt chặn sát nách thành phố Huế. Các đơn vị của ta đã dùng hỏa lực mạnh, đánh sập nhiều nhà, phá hủy trận địa pháo 105 của địch. Trận đánh thắng lợi, mở toang cánh cửa để đại quân tiến vào giải phóng huyện Hương Trà.
"Rất tiếc là trên đường rút lui, chúng ta lại bị địch phục kích, làm 10 chiến sĩ hy sinh. Đây là sự hy sinh vô cùng oanh liệt, ngay cửa ngõ và trước thời điểm quê hương giải phóng", ông Ngọc kể đến đây thì giọng lạc đi, hai khóe mắt rưng rưng.
Theo ông Ngọc, căng thẳng nhất là các ngày 23 và 24/3/1975, một trung đoàn địch bỏ tuyến Khe Trái về phòng thủ từ Hòn Vượn qua dốc Dẽ về đồi 365, một đồi cao khống chế toàn bộ khu vực án ngữ phía Tây Huế. Đơn vị của ông Ngọc được giao nhiệm vụ đánh chiếm giữ chốt 365. Cuộc chiến diễn ra rất ác liệt, pháo của địch bắn như trút hết đạn. Đến 12h ngày 24/3/1975, địch rút chạy, ta truy kích, 2 chiến sĩ dẫm phải mìn, hy sinh.

Năm nay đã gần 80 tuổi nhưng ông Nguyễn Huy Ngọc vẫn miệt mài đóng góp trí tuệ giúp xây dựng, phát triển quê hương (Ảnh: Anh Phong).
Những ngày sau đó, trước sức tấn công trên khắp chiến trường dồn hướng về thành phố Huế, cục diện chiến trường thay đổi nhanh chóng, quân địch bắt đầu bị vỡ trận, phải tháo chạy. Đơn vị của ông Ngọc được lệnh vào Huế, chiếm giữ những địa bàn quan trọng, đợi đón quân chủ lực tiến về giải phóng. Trên đường đi, ông Ngọc gặp nhiều lính ngụy chạy ra xin hàng.
Đến sáng 26/3/1975, toàn tỉnh Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng, ông Ngọc gặp lại nhiều đồng chí, đồng đội, họ ôm chầm lấy nhau, vui mừng, hạnh phúc trong chiến thắng.
Theo tư liệu lịch sử, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thừa Thiên Huế luôn là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự và ngoại giao. Đặc biệt, thành phố Huế là một trong hai đô thị lớn nhất miền Nam thời bấy giờ nên cả ta và địch đều tập trung mọi nỗ lực để giành ưu thế.
Chiến dịch giải phóng Thừa Thiên Huế diễn ra trong 2 đợt, gồm: đợt 1 ngày 5-14/3 và đợt 2 ngày 21-26/3/1975.
Sáng 26/3/1975, lá cờ cách mạng rộng 8m, dài 12m được kéo lên ở đỉnh cột cờ trước cổng Ngọ Môn, tung bay trên bầu trời Cố đô Huế, đánh dấu mốc lịch sử Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng.
Chiến thắng này đã đập tan lá chắn mạnh nhất của địch ở phía Bắc Quân khu I và vùng I chiến thuật, tạo đà cho đại quân ta tiến vào Đà Nẵng và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.