“In hộ chiếu đường lưỡi bò là sai lầm và thiếu hiểu biết”
(Dân trí) - “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở lịch sử và pháp lý. Việc in “đường lưỡi bò” lên hộ chiếu của Trung Quốc là hành động “sai lầm và thiếu hiểu biết” – nhiều đánh giá được đưa ra sau hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 4.
Thông qua thảo luận, các học giả trong nước và quốc tế cùng nhau chia sẻ những cứ liệu và tư liệu lịch sử mới tìm thấy, thảo luận về những tìm tòi, phát hiện mới trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đánh giá tác động của các thành tựu mới về khoa học và công nghệ, cùng tìm ra những giải pháp cụ thể và hiệu quả để đẩy lùi nguy cơ khủng hoảng kinh tế, tụt hậu phát triển, cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi trường…
Báo cáo trong phiên họp toàn thể về kết quả thảo luận tại biểu ban 13 – “Các vấn đề khu vực” – GS Nguyễn Quang Ngọc cho biết, có 57 báo cáo (trong đó có 10 học giả quốc tế) được chọn in, coi như báo cáo chính thức của hội thảo. 22 bản báo cáo trong số đó đã được trình bày tại tiểu ban này.
Là người phụ trách tiểu ban này qua các lần hội thảo, ông Ngọc nhận xét, chưa bao giờ tiểu ban có số người tham dự đông, thảo luận sôi nổi như lần này.
Trong đó, phiên họp về “Hợp tác và an ninh trên biển” có khoảng 80 người tham dự với 7 báo cáo được trình bày, 10 ý kiến tranh luận xung quanh các nguồn tư liệu khẳng định chủ quyền thật sự của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa, đối chiếu với các nguyên tắc chiếm hữu quy định trong luật quốc tế.
Về hệ bản đồ truyền thống của Trung Quốc, tiểu ban xác nhận ranh giới cực nam của Trung Quốc là cực nam của đảo Hải Nam, hoàn toàn không có cơ sở lịch sự và pháp lý của đường “lưỡi bò” của Trung Quốc. Đối với việc in “đường lưỡi bò” lên hộ chiếu của Trung Quốc, nhiều học giả khẳng định, đây là hành động “sai lầm và thiếu hiểu biết”.
Vấn đề biển Đông trong bối cảnh hệ thống an ninh khu vực Đông Á cũng như vai trò của ASEAN trong ngăn ngừa xung đột ở biển Đông cũng được chú trọng.
Các học giả trao đổi, thảo luận nhiều về các giải pháp giữ gìn hòa bình và bảo đảm an ninh trên biển.
“Dù đã chủ động khoanh gọn vấn đề vào hợp tác và an ninh trên biển nhưng những người tham dự hội thảo vẫn cho rằng hội thảo chỉ bố trí 1 phiên thảo luận về biển đảo là quá ít và hi vọng có nhiều hơn nữa những hội thảo khoa học quốc tế về biển Đông đề cấp đến tất cả các lĩnh vực trong mối quan hệ tổng thể” – ông Ngọc khái quát.
Cũng có học giả đề xuất gia cố hơn nữa cơ sở lý thuyết và phương pháp khu vực học trong khi vận dụng nghiên cứu không gian biển. Cũng có người đặt vấn đề biển Đông có nhiều người nghiên cứu, nhiều người quan tâm, nhiều vấn đề cần phải trao đổi và thảo luận, cần phải tổ chức thành một tiểu ban riêng hoặc được tổ hợp thành nhiều phiên họp. Việc chỉ tổ chức 1 phiên họp lại để rải ra ở nhiều tiểu ban khác nhau khiến việc thảo luận vừa phân tán vừa thiếu hiệu quả.
Phiên họp về “Hà Nội và khu vực phía bắc” dành nhiều thời gian nhất cho báo cáo về tranh chấp biên giới nam Vân Nam (Trung Quốc) và Việt Nam những năm 1720. Nguồn tư liệu nguyên gốc được đưa ra là các tập tấu của nhà Thanh (Trung Quốc) và nhà Lê (Việt Nam).
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa Thăng Long Hà Nội, đặc biệt là khu trung tâm Cấm thành Thăng Long, cũng được tập trung thảo luận. Các học giả tham gia đều có hướng khẳng định vị trí trung tâm không thay đổi của điện Càn Nguyên, Thiên An, Kính Thiên, trục chính tâm của Cấm thành. Các nghiên cứu về chế độ Thượng hoàng, các cung Thánh Từ và Quan Triều của Thăng Long thời Trần, khu phố cổ Hà Nội cũng được nhiều người quan tâm thảo luận.
Báo cáo kết quả từ tiểu ban 15 của GS Hồ Sỹ Quý nêu bật báo cáo nghiên cứu từ hơn 6000 di thư từ thời Nguyễn thể hiện chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, định xuất lương bổng cũng như quy chế giám sát hoạt động của quan lại trong bộ máy nhà nước. Tư liệu cổ cũng quy định cụ thể chế độ phụ cấp đặc biệt cho quan chức đi tuần du tại đảo Hoàng Sa.
Với chủ đề “Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển bền vững”, các kết quả nghiên cứu tại Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 4 được đánh giá là có giá trị ứng dụng cao trong phát triển ngành Việt Nam học trên thế giới. Các kết quả nghiên cứu tại hội thảo có giá trị ứng dụng cao trong phát triển ngành Việt Nam học và đóng góp quan trọng vào việc hình thành tư duy phát triển Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới cũng như đưa thế giới đến với Việt Nam. Đây cũng đồng thời là cơ hội để chúng ta thấy được sự lớn mạnh của mạng lưới nghiên cứu Việt Nam học trên toàn thế giới. Được tổ chức định kỳ 4 năm/lần và là diễn đàn khoa học lớn, có uy tín, quy tụ các nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về Việt Nam, Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần này đã thu hút gần 1.000 nhà khoa học đến từ 36 quốc gia và vùng lãnh thổ tới dự. |
P.Thảo