Đi tìm cột mốc ba cạnh
(Dân trí) - Ông Sỹ Tài bảo “hữu bằng tự viễn phương lai/ bất diệc lạc hồ”, bạn từ phương xa đến chẳng vui lắm sao. Tiễn các vị leo lên điểm núi thiêng có cột mốc ngã ba biên giới, vừa vui, già Sỹ Tài vừa buồn.
Vì hơn 70 tuổi, từ giờ đến lúc về giời, nếu nhà nước làm đường ô tô lên cột mốc, thì may ra tôi mới đi được, chứ đi bộ 8 tiếng, thì người trẻ mới đi được thôi mà.
Thêm nhiều lần “choáng váng” giữa rừng
Ngày xưa tôi còn khỏe, thì cột mốc chưa xây, chỗ đỉnh núi một tiếng gà ba nước cùng nghe kia, chỉ là một đống đá, có cái trụ đá ba cạnh hướng mặt sang ba nước đã bị cụt. Năm 2005, nhà nước thuê người Hà Nhì gùi từng túi xi măng, từng viên gạch viên đá vào xây, nghe nói mốc to lắm, các anh biên phòng và nhiều người am hiểu đều bảo: đó là cột mốc đẹp nhất (trước hết về thẩm mỹ) của toàn cõi Đông Dương. Chỗ ấy, bên phía ta gọi là núi Khoang Lao San, theo tiếng Quan hỏa tức là vùng rừng lạnh, vùng mây mù vây bủa quanh năm. Chỗ đó, cao khoảng 1.864m so với mực nước biển; bên phía Trung Quốc, bạn gọi là khu “Thập tầng đại sơn”, 10 đỉnh núi lớn; phía Lào, ở khu giáp ranh toàn đồi cỏ tranh bạt ngàn, họ gọi là gì tôi không tường tận lắm.
Khuất Văn Dũng, trạm trưởng biên phòng A Pa Chải xung phong vác AK đi dẫn đường, lại thêm Toán Chu Cà, lính đồn 317 được chỉ huy cắt cử đi khuân vác máy móc và khoác súng bảo vệ đoàn…Sự ân cần đó, khiến cho những người phố thị có sức ỳ lười nhác nhất cũng không có đường thoái lui.
“Chúng ta cần dậy từ 4h sáng, nắm cơm, chuẩn bị hành lý, gậy leo núi, túi bọc máy móc vượt rừng mưa. Phải đi sớm, nếu không muốn ngủ lại trong hốc cây, mái đá giữa rừng, người khỏe đi 8 tiếng, đoàn này… thì, nếu xuất phát từ khi trời chưa sáng, may ra về được trước khi trời tối”, Khuất Văn Dũng nói như ra lệnh cho lính mới của mình vậy. Giá rét, đồn biên phòng thì dĩ nhiên không có nước… ấm kiểu bình nóng lạnh. Đến rửa mặt bằng nước lạnh mấy chàng quay phim công tử còn không dám, nói gì đến tự tin leo núi. Nhiều đoàn chinh phục cột mốc ba cạnh đã phải ngủ lại trong rừng, có người khóc lóc bỏ cuộc chơi, có người luồn rừng đêm, ra đến đồn thì trời đã… sáng.
Cũng may là trời mù mịt mây trắng, cây cỏ chỉ ánh lên đen đủi trong tầm nhìn hơn chục mét, nên trạm trưởng biên phòng Dũng thoải mái “phủ dụ” các thành viên trong đoàn là gần lắm, gần lắm, cố mà đi đi nhé, sắp cán đích đến nơi rồi. Mây làm người leo núi như những kẻ khiếm thị. Thế hóa ra lại hay, chứ biết rõ lộ trình, khối người không đủ dũng khí lê bước khi các kẽ ngón chân đã tứa máu tươi vì dốc núi. Cứ nhè các lối mòn, các gốc cây cổ thụ, các tảng đá trơn rêu xanh mà bước.
Các đồi cỏ tranh mục nát, cỏ sắc và nhám đến ghê răng, mưa rả rích thê lương, chúng tôi cứ ngã như… đập mẹt. Minh, chàng quay phim của chương trình phát thanh có hình (vov tivi) cứ bay như vũ công nhào lộn, ngã đến mức chán nản, cậu ta cứ ẩy mình cho trôi trong bùn và cỏ mục, có khi trôi vèo vèo vào những khúc cua dài dặc đến mức chúng tôi không còn nhìn thấy cậu ta nữa. Cái mệt làm cho tiếng gọi thảng thốt của chúng tôi như tiếng rên, cậu ta có nghe thấy cũng chẳng buồn trả lời. Đúng là con ruồi đậu vào mép không buồn đuổi. Đi bằng mông. Bù lại, rừng già tuyệt đẹp, những cây cổ thụ khổng lồ, rêu mốc, cây ký sinh bám dày từ gốc lên ngọn, từ thân sang cành nhánh, chúng ủ trong mây từ thượng cổ cứ sinh ra và chết đi theo lời truyền dạy của hóa công. Cây cứ sống, cứ chết với tuế nguyệt, mà chưa bao giờ chịu một sự “xẻ thịt” nào của con người.
Vào đến rừng nguyên sinh vùng ngã ba biên giới này, dẫu leo núi đến bạc mặt, dẫu không dám tin mình còn đủ sức để đi và về đến chỗ cần đến, tôi bỗng dưng thấy đau đớn. Đau đớn vì rằng, hóa ra khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất Việt Nam này từng giàu có quá, mỗi tàng cây là một kho báu sinh thái kỳ thú, nó là tài sản tuyệt vời của con người. Ba trăm nghìn héc-ta rừng đã được khoanh lại cho dự án bảo tồn, đây là khu rừng đặc dụng lớn nhất của lịch sử giữ rừng Việt Nam; nhưng rồi người ta đã thả sức phá, thả buông cho kẻ khác phá, phá đến mức năm 2008, UBND tỉnh Điện Biên chậm chạp ra một cái quyết định thành lập Khu bảo tồn, bấy giờ rừng chỉ còn có 45.000 ha (chỉ còn chừng 1/7).
Toàn bộ vùng mênh mông cả trăm cây số tôi đã đi qua, rừng trụi thùi lụi, núi chênh vênh trọc lốc như cái cằm vừa cạo hết râu của người đàn ông nào đó. Chao ôi là khủng khiếp, đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Xuân ơi, (khi đọc loạt bài “Choáng váng với rừng ở Mường Nhé” trên Lao Động rồi phát biểu trong Quốc hội), ông nói đúng quá, nói quá đúng ngay cả khi ông chưa được có mặt ở rừng nguyên sinh vùng ngã ba biên giới như tôi lúc này đây…, rằng: nếu cứ để di dân tự do và phá rừng như lâu nay, thì câu hỏi đặt ra là “liệu chúng ta có còn luật pháp nữa hay không?”. Sau 9 năm tôi đem ảnh cũ và ảnh mới, ký ức và hiện tại ra so sánh, thì là một trời một vực, rừng bị tận diệt đến… buốt lòng. Tôi không còn dám tin bao hoang sơ năm trước là thứ có thật ở trên đời nữa.
Khoang Lao San quyến rũ!
Trên đỉnh núi cao nhất, mây bủa kín các gốc cổ thụ cách chỗ đứng của người ta chỉ 20m, gió rít u u, lạnh thấu tim óc, trên đó là cột mốc ngã ba biên giới đầy huyền thoại. Dũng bảo, có nhiều chàng biên phòng, trước khi hết thời hạn đồn trú, dù nhiệm vụ không cần phải cuốc bộ lội núi cật lực 8 tiếng vào cột mốc này, nhưng họ vẫn xin với chỉ huy cho phép được lên điểm cực Tây thiêng liêng của tổ quốc một lần, rút điện thoại ra bấm một kiểu ảnh, để tìm nghe xem cái tiếng gà gáy ba nước cùng nghe kia có thật hay không. Cũng như Dũng, Cà, họ tự hào và hạnh phúc lắm, khi được đồn trú ở nơi này. Tôi cũng sững người, sau bao năm gắn bó, cắt máu tay thụ lễ đặt tên thành người Hà Nhì rồi, giờ mới đến được cái vị trí đặc biệt này.
Đặt trang trọng trên bệ vuông lát đá granit rộng tới 36m2, cột mốc ngã ba biên giới A Pa Chải (thường gọi là mốc O) có chiều cao 2m, làm bằng đá hoa cương, hình lăng trụ, 3 mặt đá, mỗi mặt viết bằng chữ quốc ngữ và có quốc huy của mỗi nước (gồm Việt Nam, Trung Quốc và Lào). Bên ta điệp trùng rừng rậm, bên Trung Quốc, từ cột mốc bước xuống là các bậc thang bê tông xây khang trang đi tít hút vào miền rừng khá nhiều cây cổ thụ; phía Lào, là bạt ngàn các đồi cỏ tranh, chỉ toàn là cỏ tranh, gió thổi như có cỗ máy hung dữ đang đuổi mưa nặng hạt và gió lạnh quất từ chân đồi cỏ tranh lên, rét buốt.
Tọa độ đặt cột mốc, được trạm trưởng Dũng ghi chép cẩn thận trong sổ tay, anh đọc và chúng tôi tiến hành dùng máy định vị toàn cầu GPS đo thử một lần nữa. Lễ chào cột mốc được Khuất Văn Dũng và Toán Chu Cà chấn chỉnh trang phục, đội mũ cối sao vàng, khoác súng AK, thực hiện trang nghiêm, kính cẩn. Đó là tình huống mà chúng tôi cứ mải hò hét và chụp ảnh, vẫn chưa hề nghĩ tới. Họ lặng lẽ hô nghiêm, đứng chào, trong khi chúng tôi nín thở im lặng nhận ra sự vô tâm của mình ngay cả khi đứng ở địa đầu thiêng liêng cực Tây tổ quốc.
Quả mơ ngọt, ăn vào rồi thì uống nước suối bao giờ cũng thấy ngọt. Đó là lý do để người Thái có câu chuyện cổ, về một dân tộc thơ ngây ở Tây Bắc bị mất lãnh thổ của mình chỉ vì một quả mơ. Kẻ ngoại lai ấy đến, họ bảo, họ có một dòng suối nước ngọt lắm, nếu đổi những cánh đồng và các bản làng kia cho họ, thì họ sẽ ban cho dòng suối kỳ lạ đó mà ngon ngọt mãn kiếp. Họ dẫn đi thật xa, rồi làm như tình cờ để những người tìm con suối quý ngồi kia nghỉ dưới gốc cây mơ ngọt và xơi vài quả xanh, nhỏ xíu, hình tròn. Thế là, lúc đến một con suối bất kỳ, cả đoàn người thơ ngây vớt nước lên uống thử, nước ngọt lịm, lại có hương vị thơm là lạ. Càng uống càng ngọt. Thế là cộng đồng người bản địa chất phác kia chấp nhận cắt đất, đổi lãnh thổ của mình cho kẻ ngoại lai nham hiểm.
Ngẫm thế, tôi chợt nhận ra, cái chuyến lên địa đầu xa xôi này của cực tây tổ quốc, nó không chỉ là dã ngoại leo núi, không phải là đi để xác lập kỷ lục cho riêng mình hay gì gì đó, mà đích thực là một thứ hành hương với những trải nghiệm kỳ thú và mến thương về văn hóa, tộc người, về đất mẹ - với những con người lặng lẽ cho sự bình yên của xứ sở. Về cái giá của sự hoang sơ!
Ghi chép của Đỗ Doãn Hoàng