Ra mắt bản dịch "Nhật ký trong tù" nhiều bài thơ lục bát nhất của Quách Tấn
(Dân trí) - Cuốn phỏng dịch "Nhật ký trong tù" của nhà thơ Quách Tấn (1910-1992) có thể nói là bản dịch nhiều bài thơ lục bát nhất từ trước đến nay.
Sáng 18/5, tại Hà Nội, Trung tâm Sách quốc gia, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tổ chức Tọa đàm ra mắt sách Nhật ký trong tù - bản phỏng dịch của nhà thơ Quách Tấn.
Đây là hoạt động thiết thực nhân kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023) và 80 năm Bác Hồ viết tác phẩm Ngục trung nhật ký (1943-2023). Buổi tọa đàm với sự tham gia của 2 diễn giả: Nhà sử học Dương Trung Quốc và nhà nghiên cứu Hán học, PGS.TS. Lê Văn Toan.
Tại tọa đàm, bạn đọc và các đại biểu đã được lắng nghe các diễn giả chia sẻ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Nhật ký trong tù, những bản dịch tập thơ này và nhiều câu chuyện xúc động về lý do Quách Tấn dịch Nhật ký trong tù, về "hành trình" để bản dịch đến với độc giả hôm nay. Đặc biệt là những tác động của cuốn sách đối với thế hệ người đọc hôm nay, nhất là thế hệ trẻ.
Đánh giá về cuốn sách, PGS.TS. Lê Văn Toan cho biết, bản phỏng dịch của nhà thơ Quách Tấn do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành là một trong những bản dịch đặc biệt bên cạnh bản dịch quen thuộc của Nam Trân và các bậc túc nho khác.
Những trang thơ được dịch và thể hiện theo lối mới lạ, độc đáo trong ấn bản lần này giúp cho độc giả hiểu và trân trọng tài năng dịch thuật, đặc biệt là về tình cảm của thi sĩ Quách Tấn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những điểm đặc biệt của bản dịch này là việc nhà thơ Quách Tấn đã phá cách, chuyển một số bài của Nhật ký trong tù sang những thể thơ truyền thống khác của Việt Nam như thể thơ lục bát.
PGS.TS Lê Văn Toan cũng giải thích vì sao Quách Tấn không để là "dịch" mà để là "phỏng dịch" tập thơ Nhật ký trong tù. "Có lẽ Quách Tấn khiêm tốn vì biết ở Việt Nam có nhiều người am hiểu chữ Hán và đã dịch thành công Nhật ký trong tù của Bác Hồ. Hơn nữa, việc để phỏng dịch sẽ cho phép người dịch được tung tẩy dịch theo cảm xúc của mình và dịch phần lớn các bài thơ theo thể lục bát chính - một sáng tạo của Quách Tấn", PGS.TS Lê Văn Toan bộc bạch.
Chia sẻ tại buổi tọa đàm, nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, để Nhật ký trong tù - bản phỏng dịch của nhà thơ Quách Tấn đến gần với bạn đọc, điều khó khăn nhất với ông là thuyết phục gia đình dịch giả, nhà thơ Quách Tấn. Bởi sinh thời trong lần gặp gỡ, nhà thơ dặn ông "chỉ xem và không được lan truyền ra ngoài".
"Tôi đã bàn bạc, thuyết phục nhà văn Quách Giao là con trai của cụ Quách Tấn, bởi tôi nhìn thấy giá trị rất lớn của bản dịch này. Thế hệ trẻ cần thấu hiểu văn chương của Bác Hồ và đọc bản dịch này chính là cách để nhìn nhận rõ hơn về văn chương của Người", nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh.
Theo các diễn giả, tác phẩm Nhật ký trong tù là tập thơ gồm 133 bài, viết bằng chữ Hán, ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt. Tháng 8/1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam sang Trung Quốc công tác.
Khi đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Trong những tháng ngày đó (tháng 8/1942-9/1943), Người đã sáng tác tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù).
Mỗi bài thơ trong tập nhật ký là tiếng lòng của tác giả, khắc họa sâu sắc tâm hồn, những suy nghĩ, tình cảm của Bác trong thời gian bị giam cầm nơi đất khách. Đó là lòng yêu nước thiết tha, luôn đau đáu hướng về Tổ quốc, mong được trở về hòa mình vào cuộc chiến đấu của đồng chí, đồng bào.
Toàn bộ tập thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin vào ngày mai tươi sáng, ý chí kiên cường, bền bỉ, lòng quyết tâm sắt đá của Người. Tác phẩm đã trở thành bảo vật quốc gia được bạn bè quốc tế ngợi ca và đã dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Nhà thơ Quách Tấn (1910-1992) sinh ra tại tỉnh Bình Định, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn bó với mảnh đất Nha Trang (Khánh Hòa).
Ông bắt đầu làm thơ, viết văn, viết câu đối từ rất sớm. Sau năm 1930, ông thực sự bước vào văn đàn, đồng hành cùng phong trào Thơ mới.
Ông chuyên chú làm thơ Đường luật, dịch thơ chữ Hán, viết thi thoại và thi pháp, viết truyện danh nhân, viết địa phương chí, hồi ký... Các tác phẩm của ông thể hiện tình yêu, lòng tự hào về quê hương, đất nước sâu đậm.