(Dân trí) - Sang Pháp năm 1960 khi mới 14 tuổi, TS Lương Bạch Vân quyết định gác lại sự nghiệp để quay về Việt Nam năm 1978, khi đất nước vừa kết thúc chiến tranh, cần những bàn tay, khối óc tham gia tái thiết.
Giữa thập niên 70 của thế kỷ trước, khi cánh cửa hội nhập quốc tế còn chưa rộng mở với Việt Nam, nhiều trí thức gốc Việt ở nước ngoài chọn ở lại để phát huy tài năng với điều kiện làm việc lý tưởng. TS Lương Bạch Vân đã chọn con đường khác, từ bỏ công việc với mức lương nhiều người mơ ước để trở về.
Hành trình trở về của nữ Tiến sĩ thành danh trên đất Pháp (Video: Thúy Hường).
Sang Pháp năm 1960 khi mới tròn 14 tuổi, bà Lương Bạch Vân mang theo hoài bão được tiếp tục con đường học vấn và tìm kiếm thông tin về người cha là chiến sĩ biệt động đã hy sinh. Suốt những năm tháng xa quê, hình ảnh quê hương luôn in đậm trong ký ức bà, nuôi dưỡng quyết tâm trở về ngày một lớn dần theo từng bước trưởng thành.

Trong cuộc phỏng vấn với Dân trí, TS Lương Bạch Vân chia sẻ về những cuộc gặp gỡ đặc biệt, những hành trình và ngã rẽ cuộc đời đã có ảnh hưởng lớn tới quyết định hồi hương vào năm 1978.
“Trên đường ra phi trường Tân Sơn Nhất để sang Pháp, tôi cố gắng ghi nhớ hình ảnh của quê hương với những con đường đầy đồn bốt địch, hàng rào dây thép gai ở mọi nơi cùng bầu không khí u ám của thời chiến. Trong suy nghĩ của một đứa trẻ, tôi đã ước giá như mình đủ sức làm gì đó cho quê hương”, TS Lương Bạch Vân nhớ lại.

Năm 1946, biết tin người vợ trẻ hạ sinh con gái đầu lòng tại tỉnh Gia Định (nay là TPHCM), người chiến sĩ biệt động tìm cách trở về thăm nhà. Nhưng chưa kịp bước vào nhà để nhìn mặt con, ông đã bị mật thám bắt giữ và sát hại. Căn nhà nơi hai mẹ con đang nương náu cũng bị thiêu rụi.
“Mẹ tôi chỉ kịp ôm tôi rồi chạy thật xa, bỏ lại tất cả tài sản, đồ đạc, lên Đà Lạt lánh nạn. Một thân một mình ở vùng đất mới, không nơi nương tựa, mẹ buộc lòng phải gửi tôi vào cô nhi viện”, TS Lương Bạch Vân mở đầu câu chuyện.
Bà vẫn nhớ như in buổi chiều hôm đó. Sau khi dắt con gái đi chơi, người mẹ chỉ tay vào chiếc máy bay đang lướt qua và nói: “Mẹ sẽ đi Pháp bằng chiếc máy bay đó, vài năm rồi sẽ về”.
Chẳng lâu sau, bà đi thật. Bé gái bốn tuổi được đưa ra khỏi cô nhi viện, chuyển sang sống nương nhờ nhà dì, rồi nhà cậu, không được đi học.
9 tuổi, bà mới được bà nội đón về nuôi ở xóm lao động nghèo. Hằng sáng, bà dậy sớm ra chợ Bà Chiểu mua rau, giá đỗ, xay bột để bà nội làm bánh cuốn bán mưu sinh; chiều lại làm đủ việc để phụ giúp gia đình.
Dù vất vả, bà nội vẫn gắng cho cháu được đến trường. Đi học muộn so với tuổi, bà Vân tranh thủ từng khoảng thời gian để học, đọc, viết cho kịp chương trình. Chỉ sau một năm, cô bé nghèo đã vươn lên dẫn đầu lớp, trở thành học sinh xuất sắc khiến thầy cô, bạn bè và cả xóm nghèo khâm phục.

Đến năm 14 tuổi, bà nhận được thư của mẹ báo rằng sẽ đưa bà sang Pháp đoàn tụ. Trong tâm trí của một đứa trẻ, việc sang một nơi hoàn toàn xa lạ, không họ hàng thân thích, lại biết mẹ đã có gia đình riêng, mở nhà hàng và sinh thêm hai em trai cùng mẹ khác cha, là điều quá bất an. Ở lại Việt Nam, bà còn bà nội, còn những người ruột thịt thân thương.
Khi biết chuyện, bà nội khuyên và động viên bà Vân sang Pháp và tiếp tục con đường học tập. Một câu nói của bà nội đã khiến bà Lương Bạch Vân luôn xúc động mỗi khi nhớ tới: “Chỉ có học mới giúp mình giải thoát. Bà đã già rồi, chỉ có sang bên kia con mới có đường học, chứ ở lại bà cũng không đủ sức nữa”.
Một lý do đặc biệt khác khiến bà Lương Bạch Vân lựa chọn con đường sang Pháp ngày đó là tìm thông tin về cha mình, người chiến sĩ biệt động đã hy sinh.
"Vì quá đau buồn trước sự ra đi của con trai, bà nội đi xem bói và tin rằng cha tôi vẫn còn sống, đã trở về quê ngoài Bắc. Bà dặn nếu sang Pháp, tôi phải tìm cách liên lạc với gia đình để tìm lại cha", bà Lương Bạch Vân kể.
Tháng 11/1960, bà lên đường sang Pháp. Hình ảnh quê hương còn in đậm trong ký ức thiếu nữ khi ấy là hàng rào kẽm gai, trại lính dày đặc và bầu không khí nặng nề của chiến tranh.
"Trên đường ra sân bay, tôi cố gắng khắc ghi từng hình ảnh quê hương vào tim. Đất nước còn nghèo, còn cần nhiều sự xây dựng, tôi chỉ ước mình có thể làm điều gì đó cho quê hương,” bà xúc động nhớ lại".

Cuộc sống tại Pháp của bà Lương Bạch Vân bắt đầu tại thành phố Toulouse. Ngày ấy, Toulouse khoác lên mình vẻ yên bình pha lẫn nét cổ kính, với những con phố lát đá uốn lượn bên dòng sông Garonne.
Sang tới Pháp, bà Lương Bạch Vân được giao chăm sóc hai em nhỏ và phụ giúp mẹ tại nhà hàng. Khi bày tỏ mong muốn được tiếp tục đi học, mẹ bà tỏ ra ngần ngại vì lo bà chưa biết tiếng nước ngoài, khó theo kịp các bạn.
“Tôi có nói mẹ cứ để tôi đi học, tôi sẽ cố gắng. Tôi sẽ dậy sớm để phụ giúp việc trong nhà hàng, buổi trưa chạy về phụ việc, buổi tối sẽ dọn dẹp hàng quán. Thấy được sự quyết tâm đó, bà cũng bằng lòng”, TS Lương Bạch Vân kể.
Ban ngày, bà chuẩn bị mọi việc từ sớm để chăm lo cho các em, lo bữa trưa, rồi lại tranh thủ chạy đến lớp. Khi nhà hàng đóng cửa lúc 22h-23h đêm, bà mới bắt đầu học bài cho ngày hôm sau.

Trong lớp chỉ có bà là người Việt, nên mỗi lần có điều gì chưa hiểu, bà phải hỏi lại, ghi chép và tự học. Bà thường mượn vở của bạn học về chép lại bài giảng rồi trả lại ngay để không làm phiền.
Cô giáo dạy tiếng Pháp, tiếng Anh đã nhận ra ý chí của bà, thường đưa cho bà một chồng sách để đọc vào cuối tuần, yêu cầu tóm tắt lại nội dung, viết thành bài, kể lại những gì đã hiểu như một cách luyện ngôn ngữ, tư duy và viết lách.
“Khi ấy, suy nghĩ duy nhất của tôi là đã lên máy bay thì không có đường lui, phải thích nghi, phải học và làm tốt tất cả những gì mình có thể để đủ sức quay về”, bà Lương Bạch Vân nói.
Khi đã làm quen cuộc sống tại Pháp, mẹ của bà yêu cầu con gái chuẩn bị để đi xin nhập quốc tịch nước sở tại. Đối với mẹ bà, đã sang Pháp sinh sống thì việc nhập quốc tịch là điều hiển nhiên.

“Con xin được giữ quốc tịch Việt Nam. Con muốn sau này sẽ quay về”, bà trả lời vào thời điểm đó.
Mẹ của bà đáp: “Bây giờ mới qua thì xin nhập quốc tịch còn dễ, chứ vài năm nữa phải tự làm đơn thì rất khó. Con cũng tự đi làm chứ mẹ không bảo lãnh nữa”.
Dù mới chỉ 14 tuổi và chưa thật sự hiểu rõ những bất lợi có thể phát sinh nếu không có quốc tịch Pháp, bà vẫn kiên quyết giữ lập trường. Bà chỉ cảm nhận một điều rất rõ là muốn tiếp tục học hành để có thể trở về quê hương sau này.

Vào những dịp nghỉ hè, khi cả gia đình lên kế hoạch du lịch sang các nước láng giềng như Tây Ban Nha, Italy…, mọi người đều dễ dàng đi qua biên giới với tấm hộ chiếu Pháp trong tay. Riêng bà, người duy nhất giữ quốc tịch Việt Nam, không thể cùng đi.
Mãi sau này, khi đứng trước lựa chọn ngành học và nghiên cứu, bà mới thấy rõ hệ quả của việc không nhập quốc tịch Pháp. Nhiều trường và cơ sở nghiên cứu yêu cầu học viên là công dân Pháp mới được theo học hoặc tiếp cận một số cơ hội việc làm.
Năm 1973, sau khi bảo vệ xong luận án tiến sĩ, bà được chính giáo sư hướng dẫn mời ở lại nghiên cứu. “Tôi nói rõ mong muốn: Tôi muốn về nước, muốn làm trong những lĩnh vực đất nước đang cần. Hình ảnh thương binh, bệnh binh khiến tôi muốn theo đuổi ngành vật liệu sinh học để tạo ra các sản phẩm hỗ trợ phục hồi chức năng, chân tay giả”, bà kể.
Nhờ thành tích học tập xuất sắc, bà được giới thiệu vào một trung tâm nghiên cứu lớn về vật liệu sinh học, nhận mức lương đáng mơ ước. Nhưng chỉ đến ngày làm việc thứ hai, hồ sơ bà bị trả lại vì thiếu giấy tờ bắt buộc: quốc tịch Pháp. Lĩnh vực liên quan bệnh viện quân đội, tiếp xúc quân nhân, nên bắt buộc phải có quốc tịch.
“Tôi nói rất tiếc nhưng không thể đáp ứng điều kiện. Tôi ra về, chấp nhận rời vị trí và hiểu rõ bất lợi khi từ chối nhập quốc tịch. Nhưng tôi không hề luyến tiếc với lựa chọn của mình”, bà Lương Bạch Vân chia sẻ.

Trong hành trình học tập, làm việc tại Pháp và trở về đóng góp cho quê hương, TS Lương Bạch Vân nhắc đến 3 dấu mốc lớn: lời dặn của bà nội trước khi lên đường, chuyến đi dọc đất nước năm 1976 chứng kiến hậu quả chiến tranh và cuộc gặp gỡ định mệnh với TS Nguyễn Bình - mối tình đầu, cũng là người chồng hiện tại, vào mùa hè 1962.
“Tôi may mắn gặp anh Bình trên đất Pháp. Khi lập gia đình, có con và chuyển từ Toulouse lên Paris, anh luôn ủng hộ, làm hậu phương để tôi tiếp tục theo đuổi học tập, nghiên cứu”, bà xúc động chia sẻ.
Mùa hè 1962, khi gia đình chuẩn bị du lịch châu Âu, do quyết tâm giữ quốc tịch Việt Nam, bà không thể qua biên giới. Trước chuyến đi, mẹ bà chỉ nhắn: “Mẹ nghe nói ở miền Nam nước Pháp có trại hè sinh viên Việt Nam. Nếu muốn, con thử tìm”.
Ở tuổi 16, cô gái Lương Bạch Vân quyết định bắt tàu xuống Villeneuve-Loubet, miền Nam nước Pháp, cách nhà 400 km. “Nghĩ lại mới thấy mình khá liều lĩnh, chỉ mang túi nhỏ và thông tin mơ hồ. Tôi khởi hành lúc 6h sáng, tự nhủ nếu chiều không tìm thấy trại hè thì sẽ quay về”, bà kể.

Chuyến đi ấy gần như phó thác cho may rủi. Mỗi lần đến ngã rẽ, bà chọn đại một hướng, sai thì quay lại. Đi đến đâu bà cũng hỏi thăm về trại hè sinh viên Việt Nam nhưng chỉ nhận những cái lắc đầu.
Đến trưa, khi đã mệt mỏi và định quay về, một người dân chỉ hướng ra biển, nơi có nhóm người châu Á đang tổ chức sự kiện. Lòng tràn hy vọng, bà tiếp tục đi bộ, vừa hỏi đường cho đến khi gặp được trại trưởng.
Khi được hỏi ai giới thiệu, bà đáp: “Mẹ em ở Toulouse nghe có trại hè sinh viên, nhưng em không có địa chỉ”. Giữa lúc còn bỡ ngỡ, bà gặp TS Nguyễn Bình - người sau này trở thành chồng. Ông là người đầu tiên đón tiếp, tận tình giới thiệu nếp sinh hoạt trại, giúp bà làm quen với Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tại Pháp - tổ chức ủng hộ Chính phủ Cách mạng lâm thời và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Mùa hè năm 16 tuổi, bà Vân hòa mình vào các hoạt động xướng ca, biểu diễn văn nghệ, kêu gọi quốc tế ủng hộ Việt Nam, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh. Những buổi sinh hoạt ấy đã khơi dậy khát vọng cống hiến, giúp bà tìm thấy lời giải cho những trăn trở về quê hương, Tổ quốc.
Từ đó, bà bắt đầu đọc tài liệu, hiểu về cách mạng và đất nước, rồi dấn thân vào hoạt động của Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tại Pháp, trở thành cán bộ năng nổ. Ngoài cổ vũ phong trào trong nước, sinh viên Việt Nam tại Pháp còn luôn động viên, dìu dắt nhau trong học tập.
“Kể từ lần gặp gỡ đó, anh Bình luôn là chỗ dựa vững chắc của tôi. Sau này, khi đã có ba con và chuyển cả gia đình lên Paris, anh làm giảng viên đại học, còn tôi tiếp tục nghiên cứu. Anh vẫn âm thầm gánh vác việc gia đình để tôi có thêm thời gian học tập”, TS Lương Bạch Vân chia sẻ.
Mùa hè 1976, bà nhận tin bà nội lâm bệnh nặng. Bao năm xa xứ, hình ảnh người bà tần tảo nuôi nấng thời thơ ấu và những lời căn dặn trước lúc rời Tổ quốc vẫn luôn in đậm trong tâm trí.

Bà tìm đến phong trào của Hội Liên hiệp Sinh viên, trình bày nguyện vọng được về nước thăm gia đình và được chấp thuận. Cùng thời điểm đó, phong trào cách mạng đang tổ chức đưa đoàn kiều bào về nước tham dự kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau Ngày Thống nhất.
Trong chuyến về nước, bà Lương Bạch Vân có dịp được đi dọc đất nước bằng ô tô, được tận mắt chứng kiến những hậu quả tàn khốc và đời sống khổ cực của người dân vì chiến tranh. Tận mắt thấy những khó khăn của đất nước, suy nghĩ quay về, đóng góp cho quê hương, cho đất nước ngày một rõ nét trong bà.
“Ngày trước, tôi chỉ nhìn thấy hình vụ nổ, hình trái bom, bây giờ mới biết hố bom nó sâu thế nào, đã vùi lấp những gì, tàn phá làng mạc, ruộng đồng ra sao, người dân đã phải chịu đựng những hy sinh, mất mát đến mức nào. Chuyến đi cũng giúp tôi nhận ra, đây là lúc Tổ quốc cần mình”, TS Lương Bạch Vân nghẹn ngào.

Khi bà được tích lũy kiến thức, kinh nghiệm tại nước bạn thì nhiều người đã nằm xuống ở Thành cổ, ở chiến trường biên giới, ở những nơi không tên trên bản đồ. Bà từng đọc về họ trong những cuốn sách cũ, và mỗi lần đọc là một lần thấy lòng mình thắt lại.
Năm 1978, bà Lương Bạch Vân cùng chồng và 3 người con trai lên đường về nước. Hành trang được gia đình trí thức mang theo trong lần trở về này là 40 rương chứa các công trình nghiên cứu, tài liệu, dụng cụ phục vụ khoa học và trái tim, khối óc của những người con yêu nước, không toan tính, không do dự.
(Còn tiếp…)
