DNews

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc

Thành Đạt

(Dân trí) - Tầm vóc và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã ttruyền cảm hứng cho nhiều dân tộc trên thế giới trên con đường đấu tranh giành độc lập.

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Đây là một sự kiện lịch sử, mang tầm vóc thời đại và có vai trò then chốt trong tiến trình giành độc lập dân tộc của Việt Nam.

Ông Saadi Salama, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhà nước Palestine tại Việt Nam, Trưởng Đoàn ngoại giao tại Việt Nam, khẳng định Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có Palestine. Điều này được thể hiện trên một số khía cạnh chính.

Thứ nhất, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ và giành độc lập hoàn toàn. Cuộc cách mạng đã lật đổ ách thống trị hơn 80 năm của thực dân Pháp và 5 năm của phát xít Nhật, đồng thời xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở Việt Nam. Qua đó, dân tộc Việt Nam thoát khỏi cảnh bị áp bức, giành lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc - 1

Ông Saadi Salama, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhà nước Palestine tại Việt Nam, Trưởng Đoàn ngoại giao tại Việt Nam (Ảnh: Thành Đạt).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945, với bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình. Sự kiện này không chỉ khẳng định độc lập, chủ quyền của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Cuộc cách mạng đã đưa người dân Việt Nam từ thân phận bị áp bức, bóc lột trở thành công dân của một quốc gia độc lập, làm chủ đất nước và vận mệnh của mình. Điều đó đã tạo ra thế và lực, là cơ sở vững chắc cho nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại thế lực ngoại xâm để bảo vệ độc lập, thống nhất đất nước, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có mặt trên bản đồ thế giới, mở ra quan hệ ngoại giao với các nước với tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Điều này minh chứng cho sức lan tỏa của Cách mạng Tháng Tám, trở thành nguồn cảm hứng cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác trên thế giới đứng lên đấu tranh giành độc lập.

“Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mà còn là một điển hình thành công của cách mạng giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Dấu mốc này đã mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này”, Đại sứ Saadi Salama khẳng định.

Cổ vũ phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc trên toàn thế giới

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc - 2

Người dân đổ về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự mít tinh, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ngày 19/8/1945 (Ảnh: TTXVN).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã vượt tầm ảnh hưởng ra khỏi biên giới Việt Nam và trở thành động lực to lớn, cổ vũ cho nhân dân các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh giành độc lập.

Theo Đại sứ Palestine tại Việt Nam Saadi Salama, việc Việt Nam tuyên bố giành độc lập vào năm 1945 có ý nghĩa to lớn và sâu sắc, không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn tác động mạnh mẽ đến các phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đặc biệt ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho các cuộc cách mạng ở các quốc gia, dân tộc khác đi đến thành công. Trước năm 1945, ít quốc gia có thể tự mình đứng lên giành độc lập, thoát khỏi hoàn toàn khỏi ách thống trị của các cường quốc thực dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và việc Việt Nam tuyên bố độc lập đã chứng minh rằng các dân tộc bị áp bức hoàn toàn có khả năng tự giải phóng mình, ngay cả khi đối mặt với những đế quốc hùng mạnh. Điều này mang lại niềm tin và hy vọng lớn lao cho các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.

Với thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam trở thành “ngọn cờ đầu”, là một trong những nước đầu tiên ở Đông Nam Á giành được độc lập sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, sau nhiều năm bị đô hộ. Thắng lợi này đã thúc đẩy mạnh mẽ làn sóng đấu tranh giành độc lập ở các nước trong khu vực.

Theo Đại sứ Saadi Salama, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam cũng đã góp phần vào sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, làm lung lay nền tảng chủ nghĩa thực dân. Việc một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam, với tiềm lực kinh tế và quân sự còn hạn chế, có thể đánh bại thực dân Pháp và phát xít Nhật để giành độc lập đã giáng một đòn mạnh vào uy tín và quyền lực của các đế quốc. Điều đó chứng minh rằng chủ nghĩa thực dân không phải là bất khả xâm phạm.

Theo Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt Nam Juan Carlos Fernandes, đối với Venezuela, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và nhân dân Việt Nam anh hùng lãnh đạo, là một tấm gương về lòng dũng cảm, sự đoàn kết và quyết tâm, và vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho nhân dân Venezuela nói riêng và nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới nói chung trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. 

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc - 3

Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Bolivar Venezuela tại Việt Nam Juan Carlos Fernandes (Ảnh: Đại sứ quán Venezuela tại Việt Nam).

“Việt Nam đã chứng minh rằng ngay cả trước những thế lực đế quốc hùng mạnh, ý chí của một dân tộc đoàn kết vẫn có thể chiến thắng. Việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945 không chỉ mang lại tự do cho dân tộc Việt Nam anh hùng mà còn củng cố cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết trên toàn thế giới”, Đại sứ Juan Carlos Fernandes chia sẻ.

Theo Đại sứ Juan Carlos Fernandes, cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam đã vượt qua ký ức lịch sử để trở thành “ngọn hải đăng hy vọng”, dẫn dắt cuộc đấu tranh chung.

Đại sứ Venezuela nhấn mạnh, nhà giải phóng dân tộc Venezuela Simón Bolívar và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có chung một châm ngôn về tự do, một chân lý vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Đối với Nhà giải phóng dân tộc Simón Bolívar, "tự do là mục tiêu duy nhất xứng đáng với sự hy sinh của toàn dân tộc", trong khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố "Không gì quý hơn độc lập, tự do". Hai câu nói ra đời ở những thời đại và lục địa khác nhau, nhưng cùng chung khát vọng giải phóng, ngày nay đã hòa quyện vào nhau trong mối quan hệ chiến lược gắn kết Việt Nam và Venezuela, Đại sứ Venezuela nói.

Theo Đại sứ Venezuela tại Việt Nam Juan Carlos Fernandes, cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc của Việt Nam đã tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ đến các dân tộc bị áp bức trên thế giới, trong đó có các nước Mỹ Latinh, và yếu tố truyền cảm hứng nhất của Cách mạng Việt Nam là khả năng đoàn kết toàn dân tộc dưới một lý tưởng chung về độc lập và công bằng xã hội. Sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp đấu tranh vũ trang với vận động chính trị quần chúng, đã chứng minh rằng không một thế lực thực dân nào là bất khả chiến bại khi đối đầu với sự quyết tâm của toàn dân.

“Việt Nam đã cho thế giới thấy rằng sức mạnh thực sự nằm ở tinh thần đoàn kết dân tộc, sự kiên cường bất khuất và sự sáng suốt về đường lối lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đã gây được tiếng vang lớn đối với các dân tộc bị áp bức, cho thấy công cuộc giải phóng dân tộc không chỉ là một giấc mơ, mà là một chiến thắng mà các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới hoàn toàn có thể đạt được”, Đại sứ Juan Carlos Fernandes nhấn mạnh.

Đại sứ Palestine tại Việt Nam Saadi Salama cũng khẳng định tinh thần đoàn kết toàn dân là một yếu tố then chốt, mang tính quyết định đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam và tiếp tục được coi là cội nguồn sức mạnh vĩ đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay.

Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam - “Ngọn hải đăng” trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới

Cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vào ngày 2/9/1945 cũng mang nhiều ý nghĩa to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ Latinh.

Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Nicaragua tại Việt Nam Mario José Armengol Campos cũng khẳng định Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố vào ngày 2/9/1945, được coi là một sự kiện mang tính bước ngoặt. Tuyên ngôn không chỉ đánh dấu sự ra đời của một quốc gia tự do, mà còn trở thành “ngọn hải đăng” truyền cảm hứng cho tất cả các dân tộc trên thế giới đang chịu sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân.

Đại sứ Mario José Armengol Campos nhận định, đối với các nước Mỹ Latinh, khu vực khi ấy đang tồn tại chế độ thực dân mới, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam là minh chứng sống động cho thấy việc đấu tranh giành quyền tự quyết dân tộc hoàn toàn có thể thực hiện được.

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc - 4

Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Nicaragua tại Việt Nam Mario José Armengol Campos (Ảnh: Đại sứ quán Nicaragua tại Việt Nam).

Đồng thời, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam cũng cho thấy một sự thực rằng: hòa bình đích thực chỉ có thể có được khi độc lập và chủ quyền quốc gia, dân tộc được đảm bảo.

“Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã vượt qua biên giới và đại dương, đến với bên kia Tây bán cầu, nơi các dân tộc yêu chuộng hòa bình của chúng tôi hướng về đất nước Việt Nam anh hùng như một tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết, sự hy sinh và kiên cường trước ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và các thế lực áp bức, bóc lột, đô hộ”, Đại sứ Nicaragua nhấn mạnh.

Đại sứ Palestine Saadi Salama cho rằng những giá trị to lớn trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được thể hiện trên một số khía cạnh.

Thứ nhất, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam khẳng định quyền tự quyết dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố vào ngày 2/9/1945 không chỉ tuyên bố độc lập cho riêng Việt Nam mà còn khẳng định mạnh mẽ quyền tự quyết của tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Bằng việc trích dẫn các quyền cơ bản của con người từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng tầm quyền tự quyết dân tộc lên thành một quyền được cả nhân loại công nhận.

Thứ hai, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam góp phần vào việc định hình quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới. Theo đó, các nước không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ chung của các quốc gia, dân tộc khác. Điều này đã được nêu rõ trong Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện quốc tế khác.

Đại sứ Palestine nêu rõ, việc Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945 không chỉ là một sự kiện lịch sử trọng đại của riêng dân tộc Việt Nam, mà còn là nguồn cảm hứng, chất xúc tác mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Điều đó chứng minh thực tế rằng độc lập, tự chủ là kim chỉ nam giúp các quốc gia, dân tộc bị áp bức có thể tự giải phóng cho mình.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bài học lịch sử còn nguyên giá trị đến ngày nay

Cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã trở thành hình mẫu truyền cảm hứng cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nhất là với các quốc gia châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh trong thập niên 50, 60, 70 của thế kỷ XX.

Theo Tiến sĩ Lộc Thị Thủy - chuyên gia phân tích các vấn đề quốc tế tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - điều này bắt nguồn từ một số yếu tố sau:

Thứ nhất, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã góp phần làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và làm lung lay hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn cầu.

Thứ hai, sau chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), những cái tên như Việt Nam, Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp đã được thế giới biết đến và được coi là nguồn cảm hứng để các nước yêu chuộng hòa bình ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh đấu tranh giành độc lập dân tộc vào những năm 50, 60, 70 của thế kỷ XX.

Tuyên ngôn Độc lập - “Ngọn hải đăng” của phong trào giải phóng dân tộc - 5

Tiến sĩ Lộc Thị Thủy - chuyên gia phân tích các vấn đề quốc tế tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (Ảnh: NVCC).

Thứ ba, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam, đã hình thành nên một hệ thống các quốc gia độc lập mới trong phong trào Á - Phi (tiền thân của Phong trào Không liên kết ngày nay). Đây được coi là lực lượng chính trị quan trọng giúp cân bằng ảnh hưởng với chủ nghĩa đế quốc trong chiến tranh Lạnh.

Thứ tư, ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng giúp nhiều quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới xác định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã hình thành một trật tự quốc tế mới, mà trong đó, tiếng nói của các quốc gia mới giành được độc lập được coi trọng thông qua khái niệm “Thế giới thứ Ba” trước đây và “Phong trào Không liên kết” hiện nay.

Thứ sáu, uy tín, vị thế của Việt Nam trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trước kia và với các nước đang phát triển ở khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh ngày nay ngày càng được nâng cao, nhất là trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giảm sự phụ thuộc vào các nước bên ngoài.

Đặc biệt, những quan điểm, hệ giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được coi là hình mẫu để các chính đảng, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ xã hội, các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở các châu lục trên thế giới tham khảo và học tập như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh giai cấp; xây dựng chủ nghĩa xã hội; đại đoàn kết dân tộc; ngoại giao nhân dân; an sinh xã hội; giáo dục; về con người; về bảo vệ môi trường… không chỉ trong phong trào giải phóng dân tộc trước kia mà còn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.

Đại sứ Nicaragua tại Việt Nam Mario José Armengol Campos cho rằng Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, bởi bản Tuyên ngôn đã chứng minh cho các nước yêu chuộng hòa bình một thực tế rằng: Hòa bình thực sự chỉ có thể có được khi được xây dựng dựa trên nền tảng độc lập, tự do, chủ quyền quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc được đảm bảo.

Theo Tiến sĩ Lộc Thị Thủy, những bài học kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam đối với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ xã hội và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên thế giới, nhất là ở khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, đặc biệt trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực đang có nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó lường. Những bài học kinh nghiệm đó thể hiện qua nhiều yếu tố.

Thứ nhất, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kinh nghiệm trong việc xây dựng Khối đại đoàn kết toàn dân (dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chính đảng chân chính) và đoàn kết quốc tế dựa trên tư tưởng “Thế giới đại đồng” và “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công” (Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1961). Để giải phóng một dân tộc cũng như xây dựng một chế độ, xã hội mới, cần phải huy động sức mạnh của toàn dân, đoàn kết toàn dân vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội.

Đây chính là kim chỉ nam cho các hành động của cách mạng và là mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc. Hệ tư tưởng này sẽ giúp các nước đang phát triển hiện nay xây dựng một trật tự quốc tế đa phương, cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đa dạng trong quan hệ với các nước nhỏ và vừa. Điều này, sẽ giúp các nước tránh được tình trạng chọn bên như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Thứ hai, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Bởi không chỉ đối với cách mạng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn giành và giữ được chính quyền thì phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nếu không cách mạng sẽ khó đi đến được thắng lợi và thành công.

Thứ ba, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là kinh nghiệm “chớp thời cơ, chọn đúng thời điểm” để giành chính quyền mà không phải đổ máu. Điều này có được là do Đảng lãnh đạo mà cụ thể là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn đúng thời điểm, bối cảnh trong nước và quốc tế để tiến hành Cách mạng Tháng Tám. Cụ thể, bối cảnh quốc tế thời điểm đó là phát xít Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, còn trong nước, mâu thuẫn giữa Pháp với Nhật đang lên cao trào, tạo cơ hội cho Mặt trận Việt Nam giương cao ngọn cờ chống thực dân Pháp.

Thứ tư, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kinh nghiệm trong việc xây dựng một Đảng cách mạng chân chính, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của những người cộng sản. Bởi nếu trong đấu tranh giành chính quyền không có một đảng cách mạng chân chính thì khó có thể giành được chính quyền. Còn trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, nếu không có một đảng cầm quyền vững về chính trị, mạnh về tư tưởng và có đạo đức thì khó có thể chèo lái con thuyền đi đến thắng lợi và thành công.

Thứ năm, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là luôn kiên định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu không có độc lập dân tộc và không kiên định theo tư tưởng này, chủ quyền quốc gia sẽ luôn bị đe dọa, các nước lớn chi phối, dẫn đến tình trạng phụ thuộc và mất độc lập về kinh tế, sau đó về chính trị và an ninh quốc gia.