1. Dòng sự kiện:
  2. Xung đột leo thang tại Trung Đông
  3. Ukraine tấn công tỉnh Kursk
  4. Xung đột leo thang ở Trung Đông

Những day dứt của các cựu binh Mỹ ngày trở lại Việt Nam

(Dân trí) - Day dứt với những hậu quả do chiến tranh gây ra, nhiều cựu chiến binh Mỹ đã quay trở lại Việt Nam và có các hoạt động nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, trợ giúp các nạn nhân bom mìn, chất độc da cam.

Một nhóm cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam đã trở lại dải đất hình chữ S trong khuôn khổ chuyến thăm do Hội Cựu chiến binh vì Hòa Bình (VFP) của Mỹ tổ chức từ 16/4-2/5, đúng dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam.

Một vài người trong số họ từng quay trở lại Việt Nam nhưng cũng có một số chưa từng trở lại. Họ có những ký ước riêng để chia sẻ, nhưng đều day dứt về những hậu quả mà cuộc chiến để lại và có chung mong muốn góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh cũng như thúc đẩy quan hệ song phương Việt-Mỹ. Họ đã đến Hà Nội trước khi thăm lại chiến trường xưa.

Suel Jones: Yêu Việt Nam ngay từ lần đầu trở lại

Cựu chiến binh Suel Jones

Cựu chiến binh Suel Jones

Ông Suel Jones từng là lính thủy đánh bộ, tham chiến tại Đông Hà, Cam Lộ, Cửa Việt, Khe Sanh, Quảng Trị năm 1968. Jones nói ông ghét phải kể lại những việc đã làm trong chiến tranh, nhưng thừa nhận nhiệm vụ của ông cầm súng giết những người ở bên kia chiến tuyến.

Jones rời Việt Nam năm 1969 và trở lại lần đầu tiên năm 1998. Ông nói đã yêu Việt Nam ngay từ lần đầu trở lại ấy nên còn tiếp tục quay lại. Năm 2000, Jones chuyển tới sống tại Hà Nội và kể từ đó tới nay ông qua lại hàng năm giữa Mỹ và Việt Nam.

"Càng sống tại đất nước các bạn, tôi càng hiểu về đất nước, con người Việt Nam, yêu thẩm thực, phố phường. Tôi nhận ra mình rất yêu Việt Nam", cựu binh Mỹ tâm sự.

Ông nói Việt Nam đã thay đổi rất nhanh, ngoài sức tưởng tượng của ông. Trong lần trở lại này, ông đã rất ngạc nhiên với một con đường mới, to đẹp trên đường từ sân bay Nội Bài về trung tâm Hà Nội. Thời mới trở lại Việt Nam, Jones nói những con đường còn rất nhỏ và ông phải bắt xe ôm ra sân bay.

Trong nhiều năm sau chiến tranh, Jones từng không nghĩ sẽ trở lại Việt Nam. "Nhưng khi trở lại rồi, người Việt Nam đã bắt tay tôi và cho tôi tình cảm thực sự và tôi không còn cảm thấy lo lắng. Tôi đã dặn mình không nghĩ về quá khứ nữa vì khi bạn sống trong quá khứ, bạn sẽ thấy đau khổ. Bạn nên hướng về tương lai, hi vọng. Tôi học điều này từ người dân Việt Nam".

Jones cho hay đã nhận ra rằng người Mỹ và người Việt có nhiều điểm chung. "Người Việt Nam rất yêu nước, tôi cũng yêu đất nước của tôi. Các bạn yêu gia đình và làm việc rất chăm chỉ. Tôi cũng yêu gia đình tôi và tôi cũng làm việc cần mẫn. Càng ngày tôi càng nhận ra rằng dù chúng ta sống cuộc sống khác nhau nhưng chúng ta có nhiều điểm tương đồng".

Ông trở lại nhiều lần để trợ giúp khắc phục hậu quả chiến tranh để lại. Jones hiện là thành viên của tổ chức Cựu Chiến binh Mỹ vì Hòa bình (VFP). Tổ chức của ông hoạt độn nhiều nơi, trong đó có Quảng Trị. Họ trợ giúp rà phá bom mìn chưa nổ, giúp các nạn nhân chiến tranh xây lại nhà cửa hay phát quà cho họ. Jones nói ông cảm thấy rất vui khi làm những việc đó bởi nó phần nào khắc phục những hậu quả do chiến tranh gây ra, giúp ông cảm thấy thanh thản trong tâm hồn.

Rất may mắn là có nhiều cựu chiến binh Mỹ quay trở lại Việt Nam và làm những điều rất nhỏ như dạy tiếng Anh cho trẻ em, Jones nói. Nhóm của ông đang cố gắng vận động nhiều hơn nữa các cựu chiến binh Mỹ để tham gia vào các hoạt động có ích như vậy.

Jones tâm sự ông giờ đã cao tuổi và có thể không sống được bao lâu nữa, nhưng các bạn trẻ không phải trải qua chiến tranh. Hai nước có tình bạn với nhau thế hệ trẻ phải cùng chung tay xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

“Tôi rất đồng ý với ý kiến của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius. Những năm 1998-99 tôi không thể tưởng tượng được Việt Nam lại thay đổi như bây giờ. Tôi nghĩ rằng câu nói của đại sứ rằng “Mọi thứ đều có thể” là hoàn toàn có thể xảy ra”, Jones nói.

Louis Andre: Tôi đã bị lừa dối khi là lính trẻ

Ông Louis Andre

Ông Louis Andre

Louis Andre từng là lính đặc nhiệm của Mỹ, đóng quân tại vùng núi ở tỉnh Quảng Trị. Ông rời Việt Nam tháng 2/1970, sau đó ra quân và trở thành một công dân bình thường.

Andre nói ông đã mạnh mẽ phản đối chiến tranh Việt Nam sau khi rời quân ngũ. Ông đã tuần hành để phản đối chiến tranh, tham gia cùng các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam.

Chiến tranh dần lùi xa khi Andre lập gia đình và có 3 con. Ông không trò chuyện hay gặp gỡ ai từ thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng 5 năm trước, một cựu chiến binh cùng nhóm với ông đã đổ bệnh do chất độc da cam và muốn Adnre tìm lại các cựu chiến binh còn sống sau chiến tranh.

Sau đó, Andre đã dành thời gian để quan tâm tới hậu quả của cuộc chiến. “Cho dù kết cục có thế nào, chúng tôi cũng phải giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra… Những điều tồi tệ chúng tôi từng làm trong chiến tranh đã để lại hậu quả lâu dài. Những gì chúng tôi gây ra là những điều chúng tôi bị lừa dối khi còn trẻ và đã đến lúc mỗi cá nhân như tôi nên tham gia vào việc có thể làm điều gì đó để khắc phục các hậu quả đó”.

Trong chuyến thăm lại Việt Nam lần đầu tiên, ông Andre đã đưa người vợ Dena đi cùng. Họ cũng có kế hoạch thăm lại chiến trường cũ ở Quảng Trị.

Andre nói ông đã quyền tiền cho việc rà phá bom mìn tại Quảng Trị và đang kêu gọi các chiến binh khác, cũng như những người không phải cựu chiến binh, hỗ trợ cho việc khắc phục hậu quả chiến tranh.

“Tôi sẽ tiếp tục quyên góp thêm tiền cho Dự án Renew tại Quảng Trị để giúp đỡ rà phá bom mìn và nạn nhân chất độc da cam. Tôi sẽ khuyến khích các cựu binh khác tham giao vào những việc mà tôi đang làm”.

Trong vài thập niên, Mỹ đã từ chối thừa nhận hậu quả đối với những người Mỹ bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Nhưng Andre nói ông đã nhìn thấy sự đổi và hi vọng điều đó sẽ tiếp tục.

Andre nói hiện nay vẫn có một số người nghĩ rằng khó có thể cải thiện quan hệ với Việt Nam nhưng ông khẳng định số đó rất ít.

“Giờ đây có nhiều hoạt động của Mỹ tại Việt Nam, các hoạt động đầu tư, du lịch. Tôi mong trong tương lai sẽ có nhiều hoạt động trao đổi, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Mỹ”.

Frank Campbell: Chiến tranh không bao giờ là câu trả lời cho bất kỳ vấn đề gì

Cựu chiến binh Frank Campbell

Cựu chiến binh Frank Campbell

Cựu chiến binh Frank Campell kể rằng khi tham chiến tại Việt Nam, ông là thuyền trưởng trên tàu hải quân Mỹ đóng ở Biển Đông. Vì vậy, ông không tiếp xúc với người dân Việt Nam khi đó và ông cũng chưa bao giờ nghĩ Việt Nam là kẻ thù. Nhưng ký ức chiến tranh trong ông là những hậu quả do bom mìn gây ra, các hố sâu để lại sau các vụ ném bom của máy bay B-52.

“Sau khi trở về nước, tôi đã vận động mọi người từng tham gia cuộc chiến nói lên tiếng nói của mình để phản đối chiến tranh nói chung. Tôi cho rằng chiến tranh không bao giờ là câu trả lời cho bất kỳ vấn đề gì, không có kẻ thắng người thua trong chiến tranh”.

Đây là lần đầu tiên Campbell trở lại Việt nam từ năm 1974. “Tôi rất xúc động và ngạc nhiên trước sự thay đổi của Việt Nam. Sân bay hiện đại, mọi thứ rất hiện đại, rất nhiều hoạt động đang diễn ra ở ngoài kia Đó là những điều mà tôi chưa từng nghĩ đến khi tôi ở đây trong chiến tranh”.

Campbell cũng thừa nhận rằng dù chiến tranh đã qua lâu rồi nhưng hậu quả vẫn còn rất nhiều, như trong vấn đề chất độc da cam. Ông nói không chỉ người Việt Nam mà người Mỹ cũng phải chịu đựng hậu quả của chiến tranh.

Nói về quan hệ 2 nước, Campbell cho biết ông nghĩ mọi việc đang đi đúng hướng và còn nhiều điều để 2 nước có thể thực hiện cùng nhau nhằm thúc đẩy quan hệ, hàn gắn chiến tranh như các chương trình hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam, các chương trình trao đổi hơn nữa sinh viên giữa hai nước…

An Bình

Thông tin doanh nghiệp - sản phẩm