Ung thư đường tiết niệu: Dấu hiệu nhận biết và cách điều trị
(Dân trí) - Ung thư đường tiết niệu là bệnh lý ác tính xảy ra ở các cơ quan của hệ tiết niệu, phổ biến nhất là ung thư bàng quang. Tiểu ra máu là một trong những dấu hiệu phổ biến.
Ung thư đường tiết niệu có thể liên quan đến bàng quang (phổ biến nhất), bể thận, niệu quản và niệu đạo (hiếm gặp). Bệnh nhân thường có biểu hiện tiểu máu, tổng thể không đau hoặc các triệu chứng khó chịu, mặc dù một số trường hợp được phát hiện tình cờ.
Dấu hiệu của ung thư đường tiết niệu
Khi mắc ung thư đường tiết niệu, người bệnh sẽ có một số triệu chứng sau:
- Đau rát khi đi tiểu: Người bệnh sẽ có biểu hiện đi tiểu nhiều lần, buồn tiểu liên tục, tiểu không hết, đau rát khi tiểu.
- Tiểu ra máu: Nếu khối u ở đường tiết niệu bị viêm loét người bệnh có thể đi tiểu ra máu, lượng máu có thể ra nhiều hay ít sẽ tùy vào tình trạng vết loét. Máu trong nước tiểu khó có thể quan sát bằng mắt thường.
- Tiểu khó: Khối u to sẽ chèn ép lên bàng quang và ống dẫn nước tiểu, khiến bàng quang bị kích thích, nước tiểu khó lưu thông. Lúc này người bệnh sẽ có triệu chứng khó tiểu, tiểu đứt quãng, buồn tiểu mà tiểu không ra.
- Đau lưng, đau hông: Dấu hiệu này sẽ xuất hiện khi khối u xâm lấn làm bít tắc đường tiết niệu, nước tiểu không thể đào thải ra ngoài trào ngược từ bàng quang lên thận gây tổn thương thận, hư thận thậm chí là suy thận cực kỳ nguy hiểm.
- Máu trong tinh dịch: Nam giới bị ung thư đường tiết niệu có thể xuất hiện máu trong tinh dịch. Số lượng máu trong tinh dịch nhiều hay ít tùy tình trạng bệnh và thể trạng của mỗi người.
Ung thư đường tiết niệu được điều trị bằng cách nào?
Tùy vào vị trí ung thư đường tiết niệu, giai đoạn bệnh, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp.
- Phẫu thuật cắt bỏ khối u: Trong trường hợp ung thư niệu quản, phẫu thuật có thể cắt bỏ hoàn toàn niệu quản cùng với một vòng tổ chức mô xung quanh niệu quản.
Với ung thư thận hoặc khối u ở đài bể thận, phẫu thuật cắt bỏ thận, cắt bỏ toàn bộ tổ chức mỡ liên kết quanh thận kết hợp nạo hạch ở cạnh cuống thận.
- Phẫu thuật bảo tồn: Căn cứ theo vị trí của khối u trong hệ tiết niệu, bác sĩ sẽ áp dụng phương pháp cắt bỏ một phần niệu quản.
- Xạ trị: Xạ trị được chỉ định sau khi tiến hành phẫu thuật loại bỏ khối u ác tính kèm theo di căn tới hạch bạch huyết nhằm ngăn chặn sự lây lan của khối u.
- Hóa trị: Hóa trị là sử dụng hóa chất đưa vào cơ thể người giúp tiêu diệt tế bào ung thư.
Những ai dễ mắc ung thư đường tiết niệu?
Các yếu tố nguy cơ của ung thư đường tiết niệu gồm:
- Hút thuốc lá.
- Tiếp xúc lâu dài (nghề nghiệp) với chất gây ung thư (ví dụ: thuốc nhuộm azo, kim loại nặng, phenacetin, các amin thơm như benzidine và thuốc nhuộm anilin).
- Viêm đường tiết niệu mãn tính có thể dẫn đến biến đổi tế bào niệu quản thành tế bào biểu mô vảy.
- Nhiễm trùng đường tiểu mãn tính/tái phát.
- Sán máng.
- Sỏi thận mãn tính.
- Viêm niệu đạo
- Nhiễm HPV 16
- Tăng hàm lượng clo / asen trong nước uống.
- Tiền sử chiếu xạ vùng chậu, điều trị bằng cyclophosphamide…
- Tiền sử gia đình bị ung thư biểu mô.
Làm gì để chẩn đoán ung thư đường tiết niệu?
Xét nghiệm tế bào nước tiểu, soi bàng quang, và chụp cắt lớp vi tính CT được chỉ định ở tất cả bệnh nhân tiểu máu đại thể hoặc bệnh nhân> 35 tuổi bị tiểu ít và có yếu tố nguy cơ ung thư niệu quản.
- Xét nghiệm nước tiểu: Đây là một xét nghiệm đơn giản để kiểm tra máu và các chất khác trong mẫu nước tiểu. Xét nghiệm này đôi khi được thực hiện như một phần của kiểm tra sức khỏe tổng quát.
Máu trong nước tiểu thường được gây ra bởi các vấn đề lành tính (không phải ung thư), như nhiễm trùng, nhưng nó cũng có thể là dấu hiệu đầu tiên của ung thư đường tiết niệu. Một lượng lớn máu trong nước tiểu có thể được nhìn thấy nếu nước tiểu chuyển sang màu hồng hoặc đỏ, nhưng cũng có thể không nhìn thấy được nếu lượng máu trong nước tiểu là rất nhỏ.
- Xét nghiệm tế bào học nước tiểu: Trong xét nghiệm này, kính hiển vi được sử dụng để tìm kiếm các tế bào ung thư trong nước tiểu.
- Chụp CT
Những xét nghiệm này có thể giúp phát hiện một số bệnh ung thư sớm. Trong một số trường hợp, kết quả xét nghiệm có thể bất thường ngay cả ở những người không bị ung thư.