Tê bì chân tay, chóng mặt: Cảnh giác với xuất huyết do u não
(Dân trí) - U não có thể gây đột quỵ và chảy máu não bao gồm khối u nguyên phát cũng như khối u di căn có thể lan khắp não.
U não là gì?
Theo Viện Y học ứng dụng Việt Nam, u não có thể gây đột quỵ và chảy máu bao gồm khối u nguyên phát cũng như khối u di căn có thể lan khắp não.
Khối u nguyên phát là khối u khởi phát ở não. Những loại u bao gồm u màng đệm (thường lành tính và phát triển chậm), khối u tuyến yên, khối u thần kinh đệm (thường xâm lấn và phát triển nhanh) và những loại khối u khác.
Khối u di căn là ung thư bắt đầu từ một phần cơ thể (ví dụ phổi, vú hoặc thận) và lan đến những phần khác của cơ thể. Khối u có thể bắt đầu ở những nơi khác và xâm lấn vào não.
Triệu chứng của xuất huyết não do khối u
Triệu chứng của cơn đột quỵ do khối u sẽ phát triển khác với triệu chứng đột quỵ thông thường. Điều này là do hầu hết cơn đột quỵ xảy ra do tắc nghẽn đột ngột dòng máu đến một vùng não, có thể gây triệu chứng đột quỵ tiến triển đột ngột. Ngược lại, khối u tiến triển to ra từ từ vào mô não, gây nên triệu chứng tiến triển từ từ, qua ngày, tuần hoặc tháng.
Khi một khối u gây chảy máu, nó thường gây ra những triệu chứng tương tự với cơn đột quỵ do xuất huyết não điển hình.
Triệu chứng của chảy máu từ khối u não phụ thuộc vào một số yếu tố.
Triệu chứng của khối u gây chảy máu cũng phụ thuộc vào nơi có chảy máu, do chảy máu ở mỗi vùng gây nên những triệu chứng thần kinh khác với những triệu chứng do chảy máu ở vùng khác. Do đó, dấu hiệu của chảy máu não có thể từ đau đầu đơn thuần đến liệt, đe dọa tính mạng. Triệu chứng phổ biến nhất của chảy máu não do khối u bao gồm:
- Yếu mặt hoặc tay hoặc chân một bên cơ thể.
- Tê bì mặt, chân tay một bên cơ thể.
- Mất khả năng hiểu ngôn ngữ hoặc không nói được.
- Mất khả năng hoặc khó khăn khi viết hoặc đọc.
- Chóng mặt hoặc mất thăng bằng và/hoặc buồn nôn và nôn.
- Đau đầu nặng hoặc nhìn đôi.
- Thay đổi thị lực hoặc mù.
- Co giật hoặc động kinh.
Chẩn đoán khối u não chảy máu như thế nào?
Chảy máu từ u não thường được chẩn đoán với sự hỗ trợ của chụp CT, là một trong công cụ hình ảnh được sử dụng để đánh giá một vấn đề nghi ngờ trong não. Với chụp CT, vùng chảy máu thường xuất hiện với vùng màu sáng đối lập với vùng xám của mô lành.
Chảy máu não thường được bao quanh bởi vùng tối hơn, thể hiện cho vùng sưng phù.
Hầu hết tổn thương não, bao gồm đột quỵ và u não, đều gây phù. Hình dạng và kích thước của vùng phù này giúp bác sĩ chẩn đoán phân biệt chảy máu là do u não hay do những tình trạng khác, ví dụ chấn thương đầu hoặc mạch máu chảy máu.
Thông thường nếu có bất kì nghi ngờ chảy máu do u não, xét nghiệm tiếp theo là chụp cộng hưởng từ não bộ, đi cùng với tiêm thuốc cản quang. Thuốc cản quang được sử dụng để giúp tạo sự tương phản sắc nét giữa vùng não khỏe mạnh, vùng máu và vùng mô ung thư.
Tỷ lệ khối u não gây chảy máu
Đột quỵ do xuất huyết từ một khối u não thường khá hiếm gặp, chiếm khoảng 1-10% tất cả các nguyên nhân gây chảy máu trong não. Nguyên nhân thường gặp hơn của chảy máu não bao gồm: chảy máu do thiếu máu, vỡ mạch, bệnh mạch máu amyloid, chấn thương đầu.
Khối u não có xu hướng chảy máu phụ thuộc vào khối u là lành tính, ác tính, nguyên phát hoặc di căn. Mỗi loại u não lại có đặc điểm khác nhau, khiến chúng thường hoặc hiếm khi gây ra chảy máu. Ví dụ, tới 15% khối u tuyến yên gây chảy máu trong khi khối u màng đệm hiếm khi chảy máu.
Các phương pháp điều trị
Điều trị chảy máu não do khối u phụ thuộc vào lượng máu và triệu chứng nó gây ra. Điều trị tiêu chuẩn là loại bỏ cả máu và khối u cùng lúc. Tuy nhiên, đôi khi, khi số lượng máu rất ít, và triệu chứng bệnh nhân nhẹ (đau đầu), phẫu thuật không cần thực hiện ngay lập tức.
Thông thường, nếu an toàn có thể đợi một vài tuần, để tiến hành một số xét nghiệm giúp khẳng định có ung thư ở đâu đó trong cơ thể và các điều trị ung thư khác là cần thiết hay không, ví dụ xạ trị và hóa trị.
Xuất huyết do khối u não có thể là một trong những biến chứng của ung thư. Đôi khi, xuất huyết là dấu hiệu đầu tiên của u não.
Nếu có xuất huyết não do khối u, bệnh nhân sẽ cần tuân theo điều trị nhiều chuyên khoa, bao gồm bác sĩ ung bướu, bác sĩ thần kinh và phẫu thuật thần kinh. Hồi phục có thể chậm và khiến bệnh nhân kiệt sức. Sự ủng hộ lớn từ gia đình và bạn bè có thể giúp bệnh nhân hồi phục dễ dàng hơn.