Mẹ nhiễm rubella: Thà bỏ thai còn hơn xét nghiệm chọc ối?
(Dân trí) - Giữa năm 2011, khi dịch rubella bùng phát ở miền Bắc, hàng nghìn thai phụ buộc phải bỏ thai vì lo nguy cơ dị tật… Nhưng ngay cả khi có phương pháp mới xác định chuẩn đến 95% thai nhi nhiễm rubella, tỉ lệ thai phụ chọn xét nghiệm này vẫn rất thấp.
Bác sĩ đau đầu ra chỉ định
TS Tuấn cho biết, thời điểm đó, có tuần 200 ca thai phụ rubella đến khám và tư vấn. Buổi trưa thứ 4 hàng tuần, phòng hội trường tại Trung tâm chẩn đoán trước sinh chật kín sản phụ bị rubella và người nhà đợi được hội chẩn. Cả hội đồng hội chẩn (gồm nhiều bác sĩ thuộc các chuyên ngành khác nhau như chẩn đoán hình ảnh, di truyền, huyết học…) khi tư vấn mỗi thai phụ đều phải dựa vào dịch tễ học, dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm sinh hóa miễn dịch.
Tuy nhiên do thai phụ thường đến muộn, nên dù kết quả dương tính cũng không xác định được thời điểm mắc rubella và liệu vi-rút rubella lây nhiễm cho thai nhi có gây hậu quả thai bất thường hay không (làm ngưng sự phát triển của tế bào hoặc phá hủy chúng). Bác sĩ chỉ có thể tư vấn phá thai dựa vào tần suất mắc ở từng độ tuổi thai mắc rubella đã được công bố trên thế giới.
Cụ thể, nếu thai phụ nhiễm vi rút rubella trong 3 tháng đầu thì có tới 70-100% trẻ sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh (mắc các bệnh tim bẩm sinh, đục thủy tinh thể, bệnh võng mạc, điếc, chậm phát triển tâm thần và trí tuệ…). Còn nếu mẹ mắc rubella ở tuần 13 - 16, trẻ bị hội chứng rubella bẩm sinh với tỷ lệ 17%. Khi thai được 17 - 20 tuần thì tỉ lệ này là 5%. Riêng với tổn thương tim và mắt thì vi-rút gây ảnh hưởng mạnh nhất ở tháng thứ 2, sau giảm dần đến tháng thứ 6 mới hết nguy cơ. Còn với biến chứng gây điếc, có những người nhiễm bệnh ở tháng thứ 8, con vẫn bị điếc.
Từ khi bùng phát dịch rubella ở sản phụ, không bác sĩ nào dám đứng ra tự quyết định mà phải đưa vào hội đồng chẩn đoán. Bởi lẽ việc giữ hay đình chỉ thai trong những trường hợp này rất khó khăn, là cả một vấn đề đau đầu vì đây là những tư vấn dựa vào xác suất. Trong y học, xác suất mấy chục % là rất cao, nhất là đây là nguy cơ mắc hội chứng rubella bẩm sinh, đứa trẻ sinh ra mắc một loạt các bệnh như tim bẩm sinh, đục thủy tinh thể, điếc, chậm phát triển trí tuệ, thực sự là một đứa trẻ tàn phế, chứ không đơn thuần chỉ là bị sứt môi, hở hàm ếch”, BS Tuấn chia sẻ.
Vì thế, số liệu lấy máu cuống rốn xét nghiệm không điển hình (trong số 103 ca phá thai (dựa vào tần suất mắc và thai phụ làm đơn xin phá) được lấy máu cuống rốn xét nghiệm thì chỉ có 17 thai nhi khẳng định bị lây nhiễm vi rút rubella từ mẹ, còn lại, 86 trường hợp có IgG + và IgM -. Nhưng không hẳn IgM âm là không bị rubella, vì trong 28 trẻ sinh ra mắc hội chứng này, thì xét nghiệm chỉ có 23/28 trẻ có cả hai chỉ số IgG và IgM dương tính, 5 trẻ còn lại rõ ràng mắc hội chứng này nhưng xét nghiệm chỉ có IgG +, còn IgM -.
“Trong 5 ca thai phụ nhiễm rubella được thí điểm sử dụng phương pháp này thì cả 5 ca bệnh này khi khám lâm sàng bác sĩ đều đưa ra tư vấn đình chỉ thai nghén. Sau chọc ối chẩn đoán thai nhi nhiễm vi rút rubella thì có 3 trường hợp dương tính, hai trường hợp có IgG +, IgM -”, TS Tuấn nói.
Đã qua giai đoạn thí điểm và hiện đang đưa vào triển khai mở rộng hơn, nhưng đến nay mới có thêm 40 trường hợp được xét nghiệm bằng phương pháp này. “Vì thời điểm chọc ối phải ở giai đoạn 5 - 7 tuần sau khi thai phụ có dấu hiệu phát ban mới có kết quả chẩn đoán chính xác thai nhi nhiễm rubella, nhưng rất khó khăn với các trường hợp không biết thời điểm mẹ mắc bệnh. Hoặc biết giai đoạn mắc bệnh, nhưng thai phụ không đủ can đảm chờ 5 tuần để chọc ối, nếu có vấn đề phải đình chỉ thì thai đã quá to. Thường những thai phụ hiếm muộn, khó có con mới đành chấp nhận 5% nguy cơ còn lại, còn những người đã từng có con thì không chấp nhận xác xuất này, họ sợ con mình rơi 5% còn lại, nên đến nay, tỉ lệ chấp nhận chọc ối cũng không cao.
Hồng Hải