Kỹ thuật nội soi hoàn toàn cắt dạ dày và vét hạch D2
Ung thư dạ dày là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Điều trị ung thư dạ dày chủ yếu vẫn là phẫu thuật.
Cắt dạ dày nội soi, nạo vét hạch mức D2 đã được chấp nhận rộng rãi ở một số nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và một số trung tâm ở châu Âu. Phẫu thuật được chứng minh là an toàn và ít xâm hại, đảm bảo tính triệt căn và tỷ lệ sống sau 5 năm tương đương mổ mở.
Những vấn đề chưa giải quyết được
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi cắt dạ dày điều trị ung thư dạ dày đã được thực hiện ở một số trung tâm lớn. Khó khăn lớn nhất gặp phải khiến cho phẫu thuật không thể phổ biến rộng rãi là giá thành phẫu thuật cao, thời gian phẫu thuật kéo dài và kỹ thuật khó, đặc biệt là vét hạch D2 và làm miệng nối dạ dày - ruột.
Những vấn đề này dẫn đến hầu hết các trường hợp phẫu thuật nội soi cắt dạ dày đang được thực hiện tại Việt Nam hiện nay là phẫu thuật nội soi hỗ trợ, toàn bộ thì cắt dạ dày và làm miệng nối được thực hiện ngoài ổ bụng. Phẫu thuật nội soi hỗ trợ đã cho thấy có nhiều hạn chế: Phẫu thuật viên không làm chủ được đường cắt trên do đó không đảm bảo được khoảng an toàn tối thiểu trên khối u, không cắt được toàn bộ dạ dày và vẫn cần một đường mổ bụng dài khoảng 5cm để tiến hành cắt dạ dày và khâu nối ngoài ổ bụng. Phẫu thuật nội soi hỗ trợ không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn của phẫu thuật nội soi và bệnh nhân không được hưởng những lợi ích đầy đủ của phẫu thuật nội soi.
Trong điều kiện hiện nay, khi trang thiết bị và trình độ phẫu thuật viên đã được nâng cao tại các trung tâm lớn, việc áp dụng phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt dạ dày là thực sự cần thiết, nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho người bệnh.
Lựa chọn thích hợp điều trị ung thư dạ dày
PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Phẫu thuật tiêu hóa, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật ống tiêu hóa, Bệnh viện T.Ư Quân đội 108 đã tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt dạ dày, vét hạch D2, điều trị ung thư dạ dày. Nghiên cứu được tiến hành trong 1 năm, từ tháng 1/2019 - 1/2020 trên 100 bệnh nhân ung thư dạ dày, được phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt bán phần dưới dạ dày, nạo vét hạch D2.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ xâm lấn của khối u giai đoạn T1 chỉ chiếm 29,6%, trong khi khối u giai đoạn T3 và T4 chiếm tới 50%. Các nghiên cứu trong nước trước đây chỉ chứng minh được phẫu thuật nội soi hỗ trợ là an toàn và đảm bảo tính triệt căn cho ung thư dạ dày giai đoạn sớm thì các nghiên cứu gần đây đã chứng minh được giá trị của phương pháp cho cả ung thư dạ dày tiến triển khi khối u chưa xâm lấn vào cơ quan lân cận.
Hiện nay, PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn tiến hành phẫu thuật nội soi hoàn toàn cho tất cả các trường hợp ung thư dạ dày chưa có di căn xa và khối u chưa xâm lấn rộng. Việc nâng cao trình độ phẫu thuật viên tiến hành phẫu thuật nội soi đặc biệt là khả năng vét hạch D2 là một yếu tố quan trọng giúp triển khai áp dụng rộng rãi phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt dạ dày điều trị ung thư dạ dày.
Theo PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, phẫu thuật cắt dạ dày nội soi điều trị ung thư dạ dày được thực hiện đầu tiên bởi Kitano vào năm 1991. Cho đến nay phẫu thuật này được thực hiện ngày càng nhiều và được công nhận như một lựa chọn thích hợp cho điều trị ung thư dạ dày. Nhật Bản cũng như hầu hết các nước phát tiển hiện nay đã chấp nhận nạo vét hạch D2 là phẫu thuật tiêu chuẩn trong điều trị ung thư dạ dày.
Những báo cáo gần đây cho thấy nạo vét hạch D2 bằng phẫu thuật nội soi là an toàn, khả năng phẫu thuật triệt căn không thua kém mổ mở nếu phẫu thuật được thực hiện bởi những phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Kết quả sống lâu dài được báo cáo trong một nghiên cứu mới đây tại Hàn Quốc trên 714 trường hợp cắt dạ dày nội soi điều trị ung thư dạ dày tiến triển xâm lấn lớp cơ (T2) là 89,6%, xâm lấn dưới thanh mạc (T3) là 76,9% và xâm lấn thanh mạc (T4a) là 69,9%.
Kết quả nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108 đã cho thấy, phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt dạ dày, vét hạch D2 có thể thực hiện an toàn, tỷ lệ tai biến và biến chứng phẫu thuật rất thấp, đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân như ít đau, bệnh nhân có thể vận động sớm sau mổ, thời gian trung tiện và ăn bằng đường miệng ngắn tương tự như các báo cáo khác. Đặc biệt, phẫu thuật không để lại vết mổ lớn trên cơ thể nên tránh được biến chứng nhiễm trùng vết mổ và các vết sẹo lớn sau mổ.
Theo khoahocdoisong.vn