Chuyên gia Nhật Bản trình diễn 5 ca mổ nội soi bệnh lý tiêu hóa khó tại Bệnh viện E

(Dân trí) - Ngày 1/10 tại Bệnh viện E Hà Nội, chuyên gia Nhật Bản cùng các bác sĩ Trung tâm tiêu hóa (BV E) đã thực hiện 5 ca mổ nội soi bệnh lý tiêu hóa, với kỹ thuật tiên tiến nhất đến từ đất nước mặt trời mọc.

GS.TS Lê Ngọc Thành, Giám đốc Bệnh viện E cho biết, những những tiến bộ y học trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý tiêu hóa sẽ được các chuyên gia đến từ Nhật Bản chuyển giao cho các bác sĩ Việt Nam, trong đó có Bệnh viện E. Tham dự hội thảo có các bác sĩ của Trung tâm tiêu hóa, Bệnh viện E và một số bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện E. Bệnh viện E cũng đã cử bác sĩ, điều dưỡng sang học các kỹ thuật này tại Nhật Bản.

Chuyên gia Nhật Bản thực hiện ca nội soi thăm dò cho bệnh nhân.
Chuyên gia Nhật Bản thực hiện ca nội soi thăm dò cho bệnh nhân.

Theo GS Thành, tại Việt Nam, số người thực nhiễm bệnh về tiêu hóa ở nước ta hiện lên đến gần 10% dân số. Điều đáng báo động là những bệnh ung thư liên quan đến đường tiêu hóa như ung thư dạ dày, gan, đại tràng ngày càng gia tăng, phần lớn được phát hiện ở giai đoạn muộn. Trung bình mỗi năm Việt Nam có từ 11.000 đến 12.000 người mắc mới ung thư dạ dày và 8.000 người tử vong…

Ngay tại Trung tâm tiêu hóa Bệnh viện E mỗi ngày cũng có đến vài trăm bệnh nhân đến khám, trong đó thường xuyên có khoảng 150 bệnh nhân mắc phải điều trị nội trú.

Trong số ca bệnh về đường tiêu hóa, số người bị loét dạ dày tăng khá nhanh. Trong tổng số ca mắc bệnh tiêu hóa phải nhập viện thì hiện nay, tỷ lệ này đã lên đến 10%...

Với tính chất gia tăng của các bệnh tiêu hóa, sự hỗ trợ của các chuyên gia Nhật Bản sẽ giúp đỡ các bác sĩ của Trung tâm Tiêu hóa Bệnh viện E trong việc chẩn đoán và điều trị của bệnh nhân theo hướng chuyên sâu như: chẩn đoán sớm ung thư đường tiêu hóa, cắt tách dưới niêm mạc qua nội soi, điều trị tổn thương tiền ung thư, ung thư sớm mà không phải cắt bỏ thực quản, dạ dày và đại tràng, thăm dò được toàn bộ ruột non và điều trị các bệnh ở ruột non…

Trong ngày hôm nay, 5 ca bệnh đã được các chuyên gia Nhật Bản cùng các bác sĩ Trung tâm tiêu hóa Bệnh viện E tiến hành thực hiện can thiệp. Đó là bệnh nhân Đào Văn B (57 tuổi) được chẩn đoán polyp đại tràng, được các bác sĩ thực hiện nội soi phóng đại chẩn đoán và cắt bỏ polyp qua nội soi; Bệnh nhân Phạm Trung H (56 tuổi) bị viêm teo và dị cảm ruột niêm mạc dạ dày, các bác sĩ tiến hành nội soi phóng đại nhuộm màu và sinh thiết chẩn đoán; Bệnh nhân Hoàng Văn T (55 tuổi) polyp đại tràng, được các bác sĩ thực hiện nội soi phóng đại chẩn đoán và cắt bỏ polyp qua nội soi; Bệnh nhân Nguyễn Thu H (32 tuổi) chẩn đoán u dưới niêm mạc dạ dày, các bác sĩ tiến hành nội soi siêu âm chẩn đoán; Bệnh nhân Nguyễn Văn K (45 tuổi) bị giãn ống tụy chưa rõ nguyên nhân, được thực hiện nội soi chẩn đoán hình ảnh.

Trong đó, trường hợp bệnh nhân nữ 32 tuổi sau khi tiến hành nội soi siêu âm chẩn đoán các bác sĩ Nhật Bản xác định, khối u nằm lớp 4 hang vị dạ dày, có cấu trúc âm không đều dạng ống tuyến nên nghĩ đến là tụy lạc chỗ. Hướng xử trí theo phương pháp mới, thay vì phương pháp phẫu thuật cắt bỏ phần u dạ dày như trước đây, thì nay các bác sĩ chỉ định cho bệnh nhân theo dõi, và tái khám 1 năm/lần.

GS.TS Hidemi Goto - Trưởng khoa Y, ĐH Nagoya, Giám đốc Bệnh viện Meijo (Nhật Bản) cho biết, những kỹ thuật nội soi mới đang áp dụng tại Nhật Bản sẽ được đưa ra giới thiệu và chuyển giao cho các bác sĩ Việt Nam. Đó là những phương pháp điều trị mới cho bệnh lý rối loạn đường ruột, bệnh lý gan mật và cách truy tìm ung thư… với những bệnh nhân được phát hiện ung thư đường tiêu hóa sớm.

Theo Ths.BS Vũ Hồng Anh, trưởng khoa Nội soi – thăm dò chức năng Bệnh viện E, việc được các chuyên gia hàng đầu Nhật Bản mổ trình diễn, chuyển giao kỹ thuật sẽ là cơ hội để các bác sĩ Việt Nam học hỏi những tiến bộ y học trong chuyên ngành tiêu hóa, gan mật của các giáo sư, bác sĩ Nhật Bản. Đồng thời tập trung giải quyết rất nhiều bệnh lý khó khăn của đường tiêu hóa, những tiến bộ rất lớn về chẩn đoán và điều trị bệnh lý tiêu hóa, gan mật được đưa ra và hướng dẫn cho bác sĩ ứng dụng những tiến bộ mới trong thực hành lâm sàng.

Hồng Hải