Các yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư vú

Bệnh viện Ung bướu Hà Nội

(Dân trí) - Ung thư vú là một trong số loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Tỷ lệ ung thư vú nói chung sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040 và thường xảy ra ở những phụ nữ trẻ hơn.

Với rất nhiều sinh mạng đang bị đe dọa, cần thiết cung cấp cho các em gái và phụ nữ những kiến thức về các yếu tố nguy cơ về lối sống, các mối nguy hiểm môi trường mới xuất hiện cũng có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư vú.

"Điều quan trọng đối với phụ nữ và trẻ em gái là tìm hiểu những gì họ cần biết về làm thế nào để giảm nguy cơ ung thư vú để họ có thể có những lựa chọn tốt nhất trong cuộc sống hàng ngày của họ", Marisa C. Weiss, Thạc sỹ, Giám đốc Chương trình Ung thư vú và Ung thư Vú, Trung tâm Y tế Lankenau, Chủ tịch và Người sáng lập, Breastcancer.org nhấn mạnh.

Các yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư vú - 1

Tỷ lệ ung thư vú đã tăng lên vì cuộc sống hiện đại đã thay đổi môi trường cả bên ngoài lẫn bên trong cơ thể chúng ta. Những khác biệt chính giữa cuộc sống hiện đại và cuộc sống cách đây nửa thế kỷ giúp giải thích tại sao ung thư vú ngày càng trở nên phổ biến ngày nay.

Dưới đây là 12 yếu tố mới của cuộc sống hiện đại, đại diện cho các yếu tố nguy cơ đối với ung thư vú:

1. Độ tuổi trung bình của phụ nữ tăng cao

Tuổi cao là yếu tố nguy cơ lớn nhất đối với ung thư vú. Càng sống lâu, con người càng phải trải qua thời kỳ mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày. Các gen có nhiều khả năng phát triển các đột biến có hại mới và ít có khả năng sửa chữa những thiệt hại về di truyền. Nếu các gen quan trọng ngừng hoạt động bình thường, thì sự phát triển tế bào bất thường như ung thư sẽ thường xảy ra hơn.

2. Tuổi dậy thì sớm và phát triển vú diễn ra sớm hơn

Các bé gái dậy thì ở tuổi 16 có nguy cơ mắc ung thư vú thấp hơn 50% so với những bé gái dậy thì trước tuổi 12. Ngày nay, một số bé gái bắt đầu dậy thì sớm nhất là 7 tuổi - một xu hướng đáng lo ngại vì nhiều lý do. Việc sản xuất estrogen và các hormon khác khởi phát của tuổi dậy thì, tăng sự phát triển của vú. Vú hình thành, phát triển sớm hơn tiếp xúc với nhiều chất kích thích, thay đổi dẫn tới nguy cơ ung thư vú cao hơn.

3. Nhiều phụ nữ đang trì hoãn việc mang thai hoặc không mang thai đủ thời hạn

Tỷ lệ mang thai đã giảm đều đặn. Từ năm 1990, số ca sinh nở trung bình đã giảm mỗi năm khoảng 1%. Thai kỳ đầy đủ đầu tiên của một người phụ nữ bảo vệ chống lại ung thư vú bằng cách làm cho các tế bào vú trưởng thành. Tế bào vú trưởng thành có nhiều khả năng phát triển bình thường và ít có khả năng trở nên bất thường và dẫn đến ung thư.

4. Không nuôi con bằng sữa mẹ

Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm nguy cơ bị ung thư vú bằng cách buộc các tế bào vú phát triển, trưởng thành hơn. Cũng giống như khi mang thai, việc cho con bú cũng gây ra những thay đổi di truyền bảo vệ chống lại ung thư vú.

5. Sử dụng hormone thay thế

Liệu pháp thay thế hormon để giảm các triệu chứng mãn kinh và thuốc tránh thai có liên quan đến sự gia tăng nguy cơ ung thư vú. Dùng các hormon bổ sung này có thể làm tăng thêm tế bào vú và thúc đẩy sự phát triển của ung thư vú.

6. Thừa cân hoặc béo phì

Bệnh béo phì là một căn bệnh của cuộc sống hiện đại và là một yếu tố nguy cơ ung thư vú. Béo phì có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú bằng nhiều cách. Ăn quá nhiều làm tăng mỡ cơ thể và thúc đẩy sự thèm ăn, dẫn đến ăn nhiều hơn. Bệnh tiểu đường phổ biến hơn ở những người béo phì. Tình trạng này bao gồm mức đường trong máu cao và các hormon dạng insulin. Tất cả các hoạt động nội tiết tố này có thể làm tăng quá nhiều tế bào vú, có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.

7. Không tập thể dục, ít vận động

Tập thể dục thường xuyên có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú, kiểm soát trọng lượng, hạn chế sự thèm ăn, cải thiện vóc dáng của bản thân. Ngoài ra cũng giúp điều chỉnh lượng hormon và lượng đường trong máu giúp kích hoạt hoạt động của tế bào. Thêm vào đó, có thể giúp trì hoãn khởi phát tuổi dậy thì sớm ở một số bé gái.

8. Uống rượu

Rượu có ảnh hưởng tới sự phân hủy của estrogen và làm tăng sản xuất estrogen. Nó cũng có thể làm cho thụ thể estrogen trong tế bào vú nhạy hơn. Phụ nữ sử dụng rượu lâu hơn và nhiều hơn mang lại nhiều tác hại dẫn tới nguy cơ cao bị ung thư vú. Ở trẻ em gái, việc sử dụng rượu có liên quan đến tỷ lệ thay đổi vú lành tính cao hơn ở những bé gái không uống rượu.

9. Hút thuốc lá

Ngoài mối liên hệ mạnh mẽ giữa hút thuốc lá và ung thư phổi, hút thuốc cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú. Các hóa chất không lành mạnh trong khói thuốc, gây ung thư đến tất cả các bộ phận của cơ thể. Các mạch máu bị thu hẹp, lượng máu chảy giảm, các độc tố tích tụ trong mô và tổn thương tế bào xảy ra. Tổn thương tế bào không liên kết có thể làm tăng nguy cơ ung thư.

10. Hàm lượng vitamin D thấp

Một số nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa nồng độ vitamin D thấp và nguy cơ ung thư vú cao hơn. Vitamin D giúp điều chỉnh tăng trưởng tế bào vú bình thường. Nguồn vitamin D chính của chúng ta là do ánh nắng mặt trời: mặt trời kích hoạt vitamin D trong da. Cuộc sống hiện đại khiến chúng ta luôn trong nhà, làm việc, sử dụng máy tính, xem T.V, làm công việc nhà…Với thời gian ít ỏi ở ngoài trời, thật dễ dàng gây thiếu vitamin D. Việc dùng kem chống nắng giúp bảo vệ da khỏi ung thư da tuy nhiên cũng có thể làm giảm nồng độ vitamin D.

11. Căng thẳng và thiếu ngủ

Cuộc sống hiện đại khiến con người mệt mỏi, căng thẳng với nhiều áp lực. Nhiều người trong chúng ta quan tâm đến những vấn đề khác nhau và bỏ bê những nhu cầu về sức khoẻ. Sự căng thẳng đang diễn ra và tình trạng thiếu ngủ làm tăng mối nguy cơ ung thư vú.

Sự căng thẳng dẫn đến lượng hormon căng thẳng cortisol cao - có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng hoạt động của hệ thống miễn dịch và bảo vệ tế bào khỏi tổn thương. Chúng ta cần duy trì chất lượng giấc ngủ tốt, giữ cho hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, tránh những căng thẳng, mệt mỏi của cuộc sống hàng ngày.

12. Phụ nữ và trẻ em gái bị phơi nhiễm với nhiều chất gây ô nhiễm môi trường

Ung thư vú là một trong số loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Tỷ lệ ung thư vú nói chung sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040 và thường xảy ra ở những phụ nữ trẻ hơn.