Bệnh sốt mò
Vào mùa mưa, những người đi rừng hay làm nghề trồng trọt nên bôi vào các chỗ da hở dầu DEP, DEFA, cao con hổ, dầu khuynh diệp... để tránh mò đốt. Loài sinh vật này truyền nhiễm bệnh sốt mò, trường hợp nặng có thể tử vong.
Sốt mò còn được gọi là sốt rừng rú hay Tsutsugamushi, lưu hành ở các vùng phía Đông Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam.
Nguồn bệnh là dã thú gặm nhấm, chuột đồng, một số loài chim biển, chó, gà, lợn, thỏ. Côn trùng truyền bệnh là ấu trùng mò Trombiculae. Ấu trùng nằm trên mặt đất, ngọn cỏ, khi gặp người hoặc súc vật thì bám vào hút máu truyền bệnh rồi rời khỏi người, tiếp tục biến hóa thành mò trưởng thành.
Mò phát triển nhiều vào các tháng mưa (tháng 5 đến tháng 11). Người hay mắc bệnh là nông dân, công nhân trồng rừng, bộ đội hành quân ở những nơi có nhiều bụi rậm, lau lách.
Thời kỳ ủ bệnh 5-7 ngày, có thể 10 ngày không có dấu hiệu gì. Bệnh khởi phát có thể từ từ, có thể đột ngột. Bệnh nhân sốt cao 39-41 độ C, kéo dài 15-20 ngày, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, vã mồ hôi, đau các cơ lưng, ý thức kém. Mạch chậm, huyết áp hạ. Thời kỳ toàn phát có xuất hiện triệu chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc toàn thân.
3 dấu hiệu điển hình
- Nốt loét: Có ở 80% số bệnh nhân bị sốt mò. Sau 24 giờ, vết đốt phồng lên, đường kính 2 mm, 4 ngày dịch đục, 5 ngày mụn vỡ, xung quanh có sẩn cứng sau đóng vẩy màu nâu đen.
Vị trí vết loét thường ở chỗ da mềm, ẩm, kín như bộ phận sinh dục, hậu môn, nách, bẹn; có thể thấy ở đùi, bụng, cổ, ngực, lưng (phần lớn chỉ 1 nốt, một số trường hợp 2 nốt). Khi vết loét khỏi, da xung quanh cứng, đóng vảy màu nâu. Vết loét không ngứa, không đau rát, nên bệnh nhân không để ý đến.
- Sưng hạch bạch huyết: 91% trường hợp có hạch nổi ở khu vực gần vết loét. Hạch bằng hạt táo, hạt mận, di động, hơi đau. Hạch toàn thân thấy ở nách, bẹn, cổ (45%), thường nhỏ hơn hạch khu vực.
- Ban dát sẩn: Mọc vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 6, có ở 82% các trường hợp, đường kính bằng hạt kê đến 1 cm, màu mận chín, sờ hơi cứng. Ban mọc toàn thân không theo thứ tự, mọc ở mặt, ngực, bụng, tồn tại 4-5 ngày.
Xét nghiệm &đìều trị
Bạch cầu giảm ở giai đoạn sốt; lympho tăng; máu lắng tăng; phản ứng Weil Felix OXK dương tính. Nếu được điều trị bằng kháng sinh thích hợp, chỉ vài ngày sốt giảm, các dấu hiệu trên sẽ hồi phục dần dần và khỏi hẳn.
Những trường hợp nặng thường có biến chứng vào các cơ quan nội tạng và thần kinh như: viêm phế quản, viêm phổi kẽ, có thể dẫn đến suy hô hấp, viêm cơ tim, sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc, rối loạn ý thức, viêm não màng não, một số hôn mê. Tử vong do biến chứng là 1%.
Chẩn đoán phân biệt với các bệnh có sốt
- Thương hàn: Sốt kéo dài, li bì, lơ mơ. Bụng chướng, táo bón, có khi tiêu lỏng, đau và ùng ục ở hố chậu phải. Mạch chậm.
- Sốt rét: Sốt từng cơn, ngoài cơn lại bình thường. Xét nghiệm: Bạch cầu không tăng, hồng cầu giảm, tìm thấy ký sinh trùng sốt rét trong máu.
- Sốt xuất huyết: Sốt kéo dài nhiều ngày. Mắt đỏ, da hơi đỏ. Ban xuất huyết mọc vào lúc giảm sốt. Cũng có hạch toàn thân, nhưng nhỏ và ít. Bạch cầu không tăng.
- SARS: Thể biến chứng phổi của sốt mò cần phân biệt với Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS). SARS có triệu chứng sốt cao đột ngột liên tục trên 38 độ C; mạch nhanh, nhức đầu, đau mỏi cơ, nổi hạch ngoại biên, đôi khi tiêu chảy. X-quang phổi thấy tổn thương tổ chức kẽ. Xét nghiệm máu thấy bạch cầu tăng, ôxy giảm. Đặc biệt, SARS lây lan mạnh theo đường không khí (hô hấp), dễ bị suy hô hấp cấp.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống