Bệnh sống trong sợ hãi

Ám ảnh là một rối loạn tâm lý thường gặp và ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống cũng như công việc của người bệnh. Chúng khiến bệnh nhân lo lắng thường xuyên, đôi khi gây nên những cơn hoảng sợ tột độ.

 

Trẻ em dễ bị nhất


 

Trẻ em dễ bị nhất

 

Được bố mẹ đưa đến viện Sức khoẻ tâm thần khám, Nguyễn Văn An, 9 tuổi luôn tỏ ra lo lắng, liên tục đưa ra những câu hỏi lặp đi lặp lại. Bố mẹ An cho biết, An sinh ra khoẻ mạnh và phát triển bình thường, nhưng khoảng vài tháng nay, cậu bé luôn tỏ ra lo lắng về bệnh tật, rửa tay liên tục, không chắc chắn về hành động của chính mình, cần được trấn an, các hành vi lặp đi lặp lại.

 

Khi đọc một đoạn trong tài liệu được giao, cậu bé thường đọc tới cuối câu, chỉ để kiểm tra xem mình có bỏ sót từ nào không. Đặc biệt, An còn sợ là mình đã tiếp xúc với vi rút HIV do người bị bệnh AIDS lây cho! Mặc cho ba mẹ ra sức trấn an, cậu bé nhất quyết phải tắm ngay khi về đến nhà... Tiếp xúc với bác sĩ, An thừa nhận rằng trí óc của cậu đang lừa mình, khiến cậu phải hỏi lại bố mẹ cho chắc. An được chẩn đoán có biểu hiện mắc chứng rối loạn nghi thức ám ảnh.

 

Theo y văn, rối loạn nghi thức ám ảnh (Obsessive – Compulsive Disorder – OCD) có biểu hiện là những ý nghĩ thường xuyên tái diễn liên quan tới những lo âu căng thẳng, những hoạt động tâm thần hoặc thể chất có chủ ý lặp đi lặp lại để giảm sợ hãi hoặc căng thẳng do ám ảnh gây ra. Phần lớn các ca OCD đều bắt đầu từ thời kỳ thiếu niên hoặc tuổi dậy thì. Rối loạn nghi thức ám ảnh phổ biến ở trẻ em và tuổi mới lớn với tỷ lệ 0,5% và tỷ lệ suốt đời là 1 - 3%. Tỷ lệ OCD ở người trẻ tuổi tăng theo cấp số nhân cùng tuổi đời, với tỷ lệ 0,3% ở trẻ trong độ tuổi 3 - 5 tuổi, lên 0,6% đối với trẻ 13 - 18 tuổi. Tỷ lệ mắc OCD ở trẻ vị thành niên cao hơn tỷ lệ mắc các bệnh khác như tâm thần phân liệt hay rối loạn lưỡng cực. Ở trẻ nhỏ, tỷ lệ bé trai mắc OCD cao hơn một chút so với bé gái, nhưng chênh lệch này giảm khi độ tuổi tăng lên.

 

Do những nguyên nhân nào?

 

Rối loạn nghi thức ám ảnh được chỉ ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nhân tố di truyền. OCD đã được công nhận là có tính gia đình và là rối loạn do hỗn tạp nhiều gen không đồng nhất. Các nghiên cứu phả hệ, các xét nghiệm phân tử đã chứng minh nguy cơ mắc OCD khởi phát sớm có thể cao gấp bốn lần ở những người thân thế hệ thứ nhất.

 

Nguyên nhân thứ hai: do miễn dịch ở hệ thần kinh. Sự xuất hiện của hội chứng OCD sau khi tiếp xúc hoặc nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết bêta – nhóm A ở một nhóm nhỏ trẻ nít và trẻ vị thành niên đã dẫn tới những nghiên cứu về phản ứng miễn dịch ở OCD.

 

Thứ ba, do chất dẫn truyền thần kinh. Sự có mặt của một số hệ thống dẫn truyền thần kinh, bao gồm hệ thống serotonin và hệ thống dopamine được coi là điều kiện cơ bản để gây ra OCD.

 

Dấu hiệu mắc bệnh

 

Người bệnh thường dành quá nhiều thời gian vào những ý nghĩ lung tung (người bệnh biết là không đúng nhưng không thể xua đuổi khỏi tâm trí) và những nghi thức lặp đi lặp lại. Có người trước khi ra khỏi nhà đã khoá cửa, nhưng ngay khi vừa đi khỏi thì trong đầu đã hoài nghi “mình đã khoá cửa chưa”, thế là phải quay lại kiểm tra. Thấy cửa đã khoá, họ yên tâm được một chút nhưng ngay không lâu sau đó lại xuất hiện hoài nghi “đã khoá cửa chưa”. Những nghi thức cưỡng bức lặp đi lặp lại như thế được cho là hợp lý để đối phó với nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, họ cũng nhận thấy ảnh hưởng có hại của ám ảnh đến các hoạt động thường ngày.

 

Nỗi ám ảnh thường thấy nhất là nỗi sợ cực độ bị nhiễm bệnh và sợ chất bẩn, mầm bệnh, vi trùng (dẫn đến rửa tay nhiều lần, đi khám bác sĩ thường xuyên…), đứng thứ hai là nỗi sợ những nguy hiểm có thể xảy đến với bản thân hoặc người thân, sợ khoảng trống, sợ chỗ đông người và khó khăn trong việc kiểm soát nỗi sợ làm hại người khác do mất kiểm soát trong những giây phút nóng giận (nhiều người cứ thấy dao kéo là sợ vì ý nghĩ họ sẽ khó kiểm soát khi dùng chúng và gây hại cho người khác).

 

Nghi thức ám ảnh điển hình bao gồm dọn dẹp, kiểm tra, hành vi lặp đi lặp lại, và tránh né, do dự, nghi ngờ, chậm hoàn thành công việc. Hầu hết các trường hợp mắc OCD đều có sự xuất hiện cả ý nghĩ ám ảnh và hành động cưỡng bức.

 

Điều trị: phối hợp thuốc và liệu pháp hành vi

 

Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học trên thế giới với OCD ở trẻ em cho thấy việc điều trị bằng sertralin giúp 50% bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn, 25% khỏi bệnh một phần với thời gian theo dõi một năm. Tuy nhiên, trong một số ít các ca bệnh, chẩn đoán OCD có thể được coi là dấu hiệu của một dạng rối loạn tâm thần, điều này đã được tìm thấy ở 10% trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên mắc OCD trong mẫu nghiên cứu. Với trẻ em có triệu chứng dưới ngưỡng OCD, nguy cơ chuyển thành OCD toàn diện trong hai năm là rất cao. Đối với người lớn tuổi, kết quả điều trị khả quan với tỷ lệ thành công cao hơn (70%).

 

Các dữ liệu nghiên cứu cho thấy phương pháp chữa trị tối ưu là phối hợp điều trị bằng các thuốc tác động trên serotoninergic và liệu pháp nhận thức hành vi (CBT). Nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên dùng thuốc, kết hợp cả thuốc và can thiệp nhận thức hành vi ở người mắc OCD cho thấy kết quả điều trị tốt hơn so với các rối loạn lo âu khác.

 

Theo ThS.BS Dương Minh Tâm

Sài Gòn tiếp thị