GS Hà Văn Tấn - Nhà học giả thông kim bác cổ
Kỳ cuối: "Theo dấu các văn hóa cổ" và Giải thưởng Hồ Chí Minh
(Dân trí) - Hà Văn Tấn không có được cái may mắn đi du học nước ngoài. Ông "bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" với đồng bào, đồng chí trong những ngày "gừng cay muối mặn". Ấy thế mà nhiều công trình của ông được công bố ở nhiều nơi trên thế giới…
Bức hoành phi mang "Ngự bút" Khang Hy
Những năm 80 thế kỷ 20, tôi làm Tổng Biên tập tạp chí Tổ Quốc, một tờ tạp chí của giới trí thức, do GS Nguyễn Xiển làm Chủ tịch Hội đồng Biên tập, GS Hoàng Minh Giám làm Phó Chủ tịch. Ba tháng một kỳ họp Hội đồng Biên tập, gồm các thành viên: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Lân, Nguyễn Khắc Viện, Phan Huy Lê, Phan Đình Diệu, Đào Văn Tiến, Quang Đạm và Trần Hữu Nghiệp.
Tạp chí cần mời những cây bút có uy tín viết bài. Do vậy, tôi thường lui tới số nhà 20 Phan Huy Chú, gặp GS Hà Văn Tấn. Anh Tấn và cả gia đình sống trong một căn gác 20 m2. Trong phòng chẳng có thứ gì đáng giá ngoài... sách! Quanh chiếc bàn trúc Cao Bằng bé xíu, bên ấm chè Thái Nguyên chát ngọt, anh hay cùng tôi "nhàn đàm" về "ông đồ Nghệ", về quê hương... "cá gỗ"! Nhưng chưa bao giờ tôi nghe anh hé lộ một lời nào về dòng họ Hà nhà anh.
Đầu năm 2000, tình cờ đọc tờ Sài Gòn Tiếp thị số Xuân, qua câu chuyện cụ Hà Tông Mục dạy con, tôi mới biết chút ít về họ Hà "khét tiếng" ở chốn "văn hiến địa" Nghi Xuân. Trong từ đường họ Hà, hiện vẫn còn giữ được tấm hoành phi sơn son, khắc ba chữ Hán thếp vàng "Nhược xung hiên", do tự tay Hoàng đế Khang Hy nước Đại Thanh đề tặng Tiến sĩ Hà Tông Mục, khi cụ làm Chánh sứ nước Đại Việt đến Bắc Kinh năm 1703. Ý nghĩa của ba chữ ấy là: khiêm nhường, thông minh, có ý chí cao cả. Lời lẽ khiêm cung mà cứng cỏi của quan Chánh sứ khiến Hoàng đế Khang Hy nể phục.
Cũng trong từ đường họ Hà, có treo đôi câu đối do quan Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản viết tặng:
Khai hoa sự nghiệp duy tiền bối,
Tuyệt thế văn chương tất đại gia.
Từ đường họ Hà cũng như phần mộ Tiến sĩ, Đông các Hà Tông Mục nay là di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Hà Tĩnh. Không ít người trong "đại gia" này, được khắc tên trên bia tiến sĩ. Bậc "tiền bối" của Tiến sĩ Hà Tông Mục là Tiến sĩ Hà Tông Trình, người từng làm Thượng thư Bộ Hình kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám (tương tự Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay). Chính cụ đã giúp Hoàng đế Lê Thánh Tông biên soạn Bộ Luật Hồng Đức. Người họ Hà kịp đỗ Phó bảng trong khoa thi Hán học cuối cùng năm Kỷ Mùi - 1919 là cụ Hà Văn Đại.
Hà Văn Tấn sinh ngày 16/8/1937 tại Nghi Xuân, Hà Tĩnh, cùng làng Tiên Điền, quê hương Nguyễn Du, không xa làng Uy Viễn, quê hương Nguyễn Công Trứ. Thời thơ ấu và niên thiếu, cậu Tấn sống trong nhà cụ Phó bảng Đại, được cụ Phó bảng ân cần dạy bảo, theo gia phong nghiêm cẩn bao đời.
Cuốn sách 850 trang và ngành khảo cổ học nước ta
Có nhiều công trình sử học xuất sắc, nhưng chính các công trình khảo cổ học, tập hợp trong cuốn Theo dấu các văn hóa cổ dày 850 trang, in năm 1997, mới mang lại cho GS Hà Văn Tấn Giải thưởng Hồ Chí Minh. Trước thập niên 60 thế kỷ 20, ở Việt Nam, khảo cổ học chưa trở thành một ngành độc lập. Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng là hai người đi tiên phong xây dựng ngành này.
Khảo cổ học bao gồm hoạt động điền dã (điều tra, khai quật) và hoạt động nghiên cứu (tại phòng thí nghiệm), trong đó hoạt động điền dã là quan trọng nhất. Dấu chân "điền dã" của GS Hà Văn Tấn in khắp mọi miền đất nước. Ta hãy nghe PGS. TS Hán Văn Khẩn kể trong hồi ức về đợt khai quật ở Thành Dền năm 1983:
"Cũng như những lần trước, lần này tôi lại được ở cùng nhà, ngủ cùng giường, đắp cùng chăn với thầy Tấn. Nhờ cách "khéo co thì ấm", thầy trò đã qua được những đêm mưa phùn, gió rét thấu xương (...). Việc ăn uống thật hết sức đạm bạc. Gần như bữa nào cũng như bữa nào, chỉ có vài bát cơm nấu bằng thứ gạo để lâu ngày trong kho đến hôi mốc, chan với canh rau cần "toàn quốc" (chỉ có nước). Trưa, cơm với canh cần; tối, lại cơm với rau cần nấu canh! Ai cũng ớn canh cần. Nhưng muốn nuốt trôi cơm, vẫn phải có canh cần! (...) Tuy nhiên, cái "sướng" trong đợt này vẫn lớn hơn cái "khổ". Chúng tôi đào được nhiều vết tích lò nấu đồng, nhiều xỉ đồng, nhiều mảnh khuôn đúc bằng đá và đất nung...".
Hà Văn Tấn không có được cái may mắn đi du học nước ngoài. Ông "bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" với đồng bào, đồng chí trong những ngày "gừng cay muối mặn". Ấy thế mà nhiều công trình của ông được công bố không chỉ tại Hà Nội, mà còn tại Paris, Rotterdam, New York, Hawaii, Tokyo, Hong Kong, Bangkok...
Tự học là chính, vậy mà ông đã hướng dẫn 20 luận án tiến sĩ trong nước. Và năm 2000, ông được Đại học Paris 7 mời sang chấm tiến sĩ. Nhiều trường đại học ở các nước phát triển nhất cũng mời ông làm giáo sư thỉnh giảng.
Chứng minh nguồn gốc bản địa của văn hóa Đông Sơn
Bằng hoạt động điền dã và nghiên cứu, GS Hà Văn Tấn cùng các đồng nghiệp trong nước đã phát hiện và đặt tên cho nhiều văn hóa khảo cổ học ở Việt Nam. Nhà nghiên cứu cần tham khảo rộng, sâu, để biết chắc, trước mình, người khác đã làm được những gì và đâu là "mảnh đất hoang còn lại" để cho mình "khai phá". Nghiên cứu là phát hiện cái mới, chứ đâu phải là ngồi "xào xáo lại" những gì người khác đã làm và đã thành công!
Nhờ nắm được các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, chữ Nôm, chữ Hán cổ-trung đại và cả tiếng Hán hiện đại (Putonghua/Mandatin), chữ Ấn Độ cổ đại (Sanskrit và Pali), đồng thời vận dụng cả toán cao cấp và các phương pháp khảo cổ học tiên tiến, ông không bao giờ để cho mình rơi vào tình trạng "ếch ngồi đáy giếng", che lấp sự thiếu hiểu biết thấu đáo của mình bằng cái vỏ ngôn từ "to tát" hay "bay bướm"!
Một số học giả nước ngoài cố chứng minh rằng nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ kia không hề có nguồn gốc bản địa, mà có nguồn gốc ở ngoài dải đất Việt Nam hiện tại! O. Janse tìm văn hóa Đông Sơn ở người Scythes trên thảo nguyên Âu - Á. Còn, theo B. Karlgren thì văn hóa Đông Sơn bắt nguồn từ văn hóa Sông Hoài bên Trung Quốc. R. Heine-Geldern lại cho rằng kẻ sáng tạo ra văn hóa Đông Sơn là người Tokhara đã đến Việt Nam sau một cuộc thiên di dài dằng dặc từ bờ Biển Đen!
Hà Văn Tấn không tán thành những "luận thuyết" kỳ quặc kia. Nhưng muốn bác bỏ, thật chẳng dễ dàng! Ông cần tích lũy cho được hàng vạn chứng cứ vững chắc, qua hàng chục năm trời ròng rã đi điền dã. Lại còn phải biết vận dụng thành thạo những phương pháp mới nhất trên thế giới. Rồi biện luận chính xác, chặt chẽ, không để lộ một sơ hở nào khiến các vị học giả đầy quyền uy kia và đám học trò của họ có thể "ra đòn" quật lại tả tơi! Diễn đàn học thuật lắm khi cũng là chốn "trường văn trận bút".
Trong hàng loạt bài báo khoa học của mình, Hà Văn Tấn đã chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng văn hóa Đông Sơn là sự tiếp tục phát triển lên từ một chuỗi các văn hoá Tiền-Đông Sơn, mới được các nhà khảo cổ học Việt Nam khám phá. Trước văn hóa Đông Sơn là văn hoá Gò Mun. Trước văn hóa Gò Mun là văn hóa Đồng Đậu. Trước văn hóa Đồng Đậu là văn hóa Phùng Nguyên. Tôi tin rằng bạn đọc sẽ thích thú khi trực tiếp xem các công trình giàu tính khám phá của Hà Văn Tấn về văn hóa Phùng Nguyên, như: Người Phùng Nguyên và đối xứng (1969), Từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng (1974), Văn hóa Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt (1975)...
Qua các bài báo khoa học ấy, với vô số hình vẽ chính xác, tỉ mỉ, Hà Văn Tấn đã chứng minh: Xét về mặt từ vựng và ngữ pháp, thì ngôn ngữ đồ gốm Phùng Nguyên tương đồng với ngôn ngữ đồ đồng Đông Sơn. Ngôn ngữ đó chính là các họa cảnh và họa tiết trang trí. "Từ vựng" ở đây có nghĩa là vốn liếng các họa tiết khác nhau. Còn "ngữ pháp" là quy tắc kết hợp các họa tiết ấy khi trang trí các dải, cột và diềm trên đồ gốm Phùng Nguyên hay trên mặt trống, tang trống đồng Đông Sơn.
Hà Văn Tấn nhấn mạnh:
"Những điểm tương đồng giữa nghệ thuật Đông Sơn và nghệ thuật Phùng Nguyên đã khẳng định truyền thống Phùng Nguyên trong văn hóa Đông Sơn. Văn hóa Đông Sơn bắt nguồn từ văn hóa Phùng Nguyên, trên quê hương chúng ta, chứ không phải từ những văn hóa xa xôi nào đó". Tuy vậy, là người cẩn trọng, ông không quên viết tiếp:
"Nhưng để cho sức thuyết phục của kết luận này mạnh mẽ hơn, còn nhiều việc phải làm. Chẳng hạn, phải tích luỹ nhiều hơn nữa tài liệu văn hóa gốm Phùng Nguyên, phải mở rộng nghiên cứu trên toàn bộ đồ đồng Đông Sơn, phải tìm dấu nối giữa Phùng Nguyên và Đông Sơn".
Rồi ông kết luận:
"Không nghi ngờ gì nữa, trống đồng là một sáng tạo tuyệt vời và độc đáo của chủ nhân văn hóa Đông Sơn. Trống đồng đánh dấu một giai đoạn nở rộ của văn minh Sông Hồng. Một bước nhảy vọt đã được thực hiện trong đời sống vật chất và tinh thần của tổ tiên người Việt. (...) Trống đồng ra đời là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài của nhiều yếu tố vật chất và tinh thần đã cấu thành nền văn minh Sông Hồng."
Hàm Châu