Giết vợ, đi tù vẫn cho rằng mình đúng
Trả giá vì hành vi tội lỗi, nhiều người ân hận, day dứt song có những người vẫn khư khư ôm lấy suy nghĩ rằng mình đúng để trốn tránh.
Một trong những kẻ tội đồ, luôn cho rằng mình không nghĩ sai cho người khác mà tôi gặp ở trại giam Vĩnh Quang ấy là Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1965, quê ở Thái Nguyên, kẻ bị kết án 20 năm tù về tội giết người.
Bảo thủ hay cố tình trốn tránh
Mới qua tuổi tứ tuần nhưng Tuấn ốm yếu, xanh bủng như một ông lão, không còn sức sống. Kể về nguyên nhân giết người của mình, anh ta khẽ nhếch mép bảo: “tôi tin là mình đúng, vợ tôi có ngoại tình, chỉ có điều tại tôi cầm dao dạy vợ, không may đâm trúng ngực cô ấy nên giờ mới thế này”. Bảo thủ, cố chấp hay Tuấn đang cố tình trốn tránh một sự thật mà đã 10 năm nay anh ta phải trả giá nhưng vẫn cố vớt vát để sống?.
Tuấn là con út trong một gia đình đông anh em, làm nông nghiệp ở huyện Phổ Yên. Sinh ra vốn đã ốm yếu nên Tuấn luôn mặc cảm về sức khỏe khiêm tốn của mình. Ngay cả khi đã lấy được vợ, anh ta cũng luôn cảm thấy lép vế trước người vợ quê mùa nhưng khỏe mạnh nên luôn kiếm cớ gây sự với vợ con để giành quyền ông chủ nhà. Vợ Tuấn là người tháo vát, ngoài ruộng vườn ra, chị còn bươn trải chạy chợ bán rau, quả nên kinh tế gia đình cũng tươm tất. Ba đứa con nhờ sự tảo tần của mẹ, đều được ăn học đến nơi đến chốn song với Tuấn, người đàn ông vốn chưa lần nào tự tin về bản thân mình thì việc chị vợ kiếm được tiền không thể chỉ là bán buôn, chạy chợ. Nghi vợ ngoại tình mang tiền về nuôi con, nhiều lần Tuấn ghen tuông bóng gió, đánh vợ thâm tím mặt mày. Thấy Tuấn đã không giúp gì vợ con lại còn có tính đa nghi, ghen tuông, các anh chị đều lựa lời khuyên can nhưng Tuấn không hối cải mà cho rằng mọi người vào hùa với vợ vì coi mình là người vô dụng.
Tối ngày 25-10-2002, trong lúc chị Chiến, vợ Tuấn đang ngồi bó rau ở góc sân, Tuấn đang uống nước trong nhà thì một người đàn ông đi qua ngõ. Cho rằng người đàn ông kia có tình ý với vợ mình, đi qua để hẹn hò, Tuấn cất tiếng chửi vợ. Bực mình, chị Chiến liền bảo: “uống rượu rồi thì lên giường đi, đừng giở chứng nữa” rồi bỏ chạy. Tuấn cầm dao đuổi theo thì anh Nguyễn Văn Chiến, hàng xóm đi qua, nhìn thấy vào can ngăn. Tuấn cầm dao quay về còn chị Chiến bỏ sang nhà anh chồng trò chuyện với chị Dương, vợ anh chồng.

Không thấy vợ quay về, Tuấn xách dao đi tìm. Đến nhà anh trai, thấy chị Chiến đang ngồi nói chuyện với chị Dương, Tuấn xông tới, lia con dao vào người vợ. Chị Dương giơ tay đỡ đòn cho em dâu, bị đâm trúng tay phải. Sợ hãi, chị Chiến bỏ chạy nhưng do trời tối lại vội vàng nên người phụ nữ này vấp ngã ngay chỗ cửa ra vào. Tuấn xô tới vung dao đâm liên tiếp. Chị Chiến thiệt mạng ngay đêm đó với 10 nhát dao chí mạng khắp cơ thể còn chị Dương phải 8 mũi ở tay phải. Với hành vi này, Tuấn bị kết án 20 năm tù về tội giết người.
Vẫn còn đó nỗi đau
Ngày Tuấn hầu tòa rồi vào trại giam thụ án, tính đến nay sắp tròn 10 năm nhưng mãi cuối năm ngoái, người anh trên Tuấn mới vào thăm. Một phần vì hoàn cảnh quá nghèo, đi lại xa xôi, phần nữa vì mọi người đều giận đứa em tính tình bạc nhược, khuyên giải mãi không nghe để rồi gây ra tội lỗi tày đình. Ba đứa con hai gái , một trai của Tuấn không vào thăm bố cũng không một lời nhắn gửi. Chúng giận một người cha như Tuấn đã không làm được gì còn cướp mất mẹ của chúng. Từ ngày mẹ mất, cuộc sống của ba anh em rẽ sang một bước ngoặt lớn. Đứa lớn đang học ĐH phải bỏ vì không có tiền, hai đứa bé cũng chỉ đến trường được một thời gian thì phải nghỉ. Ông bà mất cả, các bác đều nghèo, không người cưu mang nên ba đứa trẻ tự phải bảo ban, kiếm sống nuôi nhau. Nghe anh trai kể, Tuấn mới biết ba đứa con mình đang làm thuê ở Bắc Ninh trong đó hai cô con gái thì làm công nhân ở một xưởng may còn cậu con trai thì làm thợ xây, một năm vài bận chúng mới về qua nhà. Tuấn mừng lắm vì các con đều đã trưởng thành nhưng cũng thấy tủi thân vì biết rằng chúng không gửi thư, không một lời hỏi thăm chứng tỏ trong lòng chúng không tồn tại người bố như Tuấn. Vậy nhưng khi nói chuyện với tôi, anh ta vẫn cố vớt vát: “Rồi chúng nó sẽ phải nghĩ lại. Tôi đâu có nghi oan cho vợ”. Đôi mắt ráo hoảnh, Tuấn quay đi tránh cái nhìn ngạc nhiên của người đối diện.
Vì sức khỏe yếu nên từ ngày lên Vĩnh Quang, Tuấn nghỉ nhiều hơn đi làm cho dù công việc của anh ta không cần lắm đến sức khỏe. Tuấn viện lý do thường hay đau đầu nên chỉ một chút động nhẹ như tiếng loạt xoạt giở giấy của các phạm nhân làm hàng mã cũng khiến đầu anh ta nhức buốt. Nước da xanh bủng của người cớm nắng, Tuấn bảo sợ ánh sáng, chỉ thích ngồi trong nhà và nghĩ. Hỏi anh ta nghĩ gì, ân hận hay nghĩ về tương lai của mấy đứa con, nghĩ ngày được gặp chúng,… Tuấn lắc đầu: “nghĩ vu vơ thôi”.
Trung tá Tạ Huy Bằng, quản giáo phụ trách phạm nhân ở phân trại 1 cho hay: “Tuấn là một phạm nhân bảo thủ chưa ai bằng nhưng thường vin vào lý do sức khỏe để trốn tránh lao động. Trong tù anh ta không có bạn, thường lặng lẽ một mình, sống không hòa đồng nên tâm tư khó nắm bắt”.
Thường thì khi vào trại giam, trả giá cho việc làm tội lỗi của mình, hầu hết những kẻ lầm lỡ này đều ăn năn, hối hận về những việc mình đã làm thế nhưng Tuấn thì lại khác. Người đàn ông bất lực, mang tội giết vợ này luôn tin rằng mình nghĩ đúng và luôn bám vào lý do đấy để ngụy biện cho hành vi mất nhân tính của mình. Dẫu biết rằng sống lay lắt như anh ta thật là tiếc song vẫn còn hơn người vợ xấu số, chết mà không giải được tiếng oan ngoại tình. Gần 10 năm ăn cơm tù, 3 lần được xét giảm với thời gian tổng cộng là 2 năm, Tuấn còn mấy năm nữa thôi là mãn hạn. Không hiểu đến khi đó ba đứa con sẽ đối xử với anh ta thế nào. Không nói ra nhưng tôi biết Tuấn đang lo lắm và có lẽ trong lòng anh ta đang rất ăn năn nhưng lại không muốn thổ lộ, sợ người ta biết được suy nghĩ của mình, giống như bản tính không tự tin cố hữu trong lòng anh ta vậy.
Kết thúc buổi nói chuyện, Tuấn sẽ sàng đứng lên, lặng lẽ đi về nơi lao động, đôi mắt không thần sắc chỉ khẽ chớp chớp.