Chưa kiểm soát được việc nhập khẩu hóa chất bảo vệ thực vật
Việc nhập khẩu các loại hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) (có cả thuốc giả, thuốc ngoài danh mục, thuốc hạn chế, thuốc cấm sử dụng...) vẫn còn phổ biến và chưa thể kiểm soát ở nước ta.
Đây là nguyên nhân tạo ra sự “lộn xộn” về chất lượng thuốc BVTV trên thị trường.
Số liệu của Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) cho thấy, hàng năm, nước ta phải nhập khẩu trên 70.000 tấn thuốc BVTV thành phẩm với chi phí khoảng 210 – 500 triệu USD. Các hóa chất này hầu hết đều được nhập từ nước ngoài, trong đó có đến 90% nhập khẩu từ Trung Quốc.
Theo nguyên tắc nhập khẩu hóa chất, thuốc BVTV, đối với thuốc và nguyên liệu (thuốc kỹ thuật) trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành, khi nhập khẩu chỉ phải làm thủ tục tại cơ quan Hải quan. Đối với các loại thuốc và nguyên liệu thuốc BVTV trong danh mục cấm sử dụng ở Việt Nam; thuốc thành phẩm và nguyên liệu thuốc BVTV nhập khẩu vào Việt Nam phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng trước khi sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói, lưu thông và sử dụng.
Hiện mỗi tháng có khoảng 5-7 tấn hóa chất BVTV bất hợp pháp bị thu giữ. Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà quản lý, số liệu thống kê này vẫn chưa đầy đủ.
Đại diện Cục BVTV – ông Nguyễn Xuân Hồng cho biết: “Tại nhiều địa phương, các đối tượng nhập lậu thường xuyên thay đổi phương thức hoặc tiến hành nhập lậu nhỏ lẻ, gây khó cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, phát hiện và xử lý. Điều này khiến tình trạng thuốc BVTV ngoài danh mục cho phép vẫn được nhập lậu tràn lan; ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường thuốc BVTV và làm trở ngại đến công tác quản lý”.
Ông Nguyễn Hồng Anh – Phó Chi cục Trưởng – Chi cục BVTV Hà Nội cho biết, mới đây, đơn vị này đã tiến hành thanh, kiểm tra tại 39 cửa hàng, công ty buôn bán thuốc BVTV, qua đó, phát hiện 9 trường hợp vi phạm về buôn bán thuốc BVTV ngoài danh mục cho phép hoặc thuốc BVTV đã hết hạn sử dụng.
Không những thế, qua kiểm tra, Chi cục BVTV Hà Nội cũng phát hiện 2 trường hợp sản xuất, sang chai, đóng gói thuốc BVTV không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Ông Hồng Anh cũng nhận định: “Trên thực tế, những người buôn lậu vì lợi ích riêng, tìm mọi cách mua bán, kinh doanh mặt hàng này, làm cho tình hình ngày càng trở nên phức tạp”.
Báo cáo mới nhất của Cục BVTV, trước năm 2003, lượng thuốc BVTV nhập khẩu vào Việt Nam không bao giờ vượt quá con số 40 nghìn tấn/năm. Tuy nhiên, kể từ năm 2004 đến nay đã tăng vọt lên gấp đôi, cá biệt như năm 2008, lượng thuốc BVTV nhập khẩu lên tới hơn 100 nghìn tấn. Trong số này, theo đánh giá thì chỉ có khoảng 2.000 tấn là do các DN kinh doanh thuốc BVTV nhập nguyên liệu về, sau đó sang chai đóng gói và xuất khẩu sang nước thứ 3, còn lại đều đổ hết xuống đồng ruộng nước nhà.
Ngoài tác động tiêu cực đối với môi trường và sức khỏe con người, hóa chất BVTV còn gây ra những tổn thất kinh tế không nhỏ khi phải tiêu hủy chúng bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Vì thế, để hạn chế tối đa hậu quả, các cơ quan có thẩm quyền cần kiểm soát chặt chẽ hệ thống kinh doanh, tình hình nhập khẩu hóa chất, nhất là tại các địa phương vùng biên giới. Có như vậy, thị trường, chất lượng và giá cả các loại hóa chất BVTV khi đến tay người tiêu dùng mới được đảm bảo.
Vân Anh