Việt Nam có nguy cơ rơi vào khủng hoảng nợ công?
(Dân trí) - Các số liệu về nợ công vẫn được báo cáo trong phạm vi an toàn, song nêu phân tích sâu hơn về đặc điểm và cách tính nợ công của Việt Nam, hiệu quả quản lý và sử dụng nợ sẽ thấy đây là một thực trạng đáng quan ngại hơn nhiều so với các con số.
PGS.TS Trần Đình Thiên
Theo Đồng hồ nợ công toàn cầu, tính đến tháng 1/2015, nợ công của Việt Nam ở mức 87.063 tỷ USD, chiếm 46,9% GDP, tăng 10,2% so với năm 2013; bình quân nợ công đầu người 960 USD. Những con số này vẫn nằm trong phạm vi an toàn theo tiêu chuẩn về ngưỡng trần nợ công/GDP 65% do Bộ Tài chính đặt ra. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn về đặc điểm và cách tính nợ công của Việt Nam, cũng như đặt vấn đề hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều yếu kém như hiện nay, sẽ thấy đây là một thực trạng đáng quan ngại hơn nhiều so với các con số trên.
Các số liệu công bố chính thức tới thời điểm hiện tại đều cho thấy tỉ lệ nợ công/GDP của Việt Nam luôn ở dưới mức 65%. Bên cạnh đó, tính thanh khoản nợ công của Việt Nam được đánh giá khá tốt với trên 80% các khoản nợ nước ngoài là dài hạn với lãi suất thấp. Tham luận của TS Trần Đình Thiên và các cộng sự đánh giá, với những con số thống kê kể trên, khả năng Việt Nam rơi vào một cuộc khủng hoảng nợ công là không cao.
Theo đó, mức độ nợ công luôn được báo cáo ở dưới ngưỡng an toàn, các điều chỉnh về mặt pháp luật là tương đối hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh cũng như điều kiện hiện tại. Tuy nhiên, nhóm tác giả cho rằng, vấn đề không nằm ở con số nợ công là bao nhiêu, mà là ở xu hướng tăng trưởng của nợ công và khả năng trả nợ. Nghĩa là cần cân nhắc trong tương lai ngắn hạn rất có khả năng nợ công của Việt Nam sẽ tăng vượt ngưỡng 65%; khả năng trả nợ là rất khó khăn và hạn chế, xét trên những rủi ro về nợ công, quản lý nợ công và vấn về thâm hụt ngân sách.
Không thể đánh giá rủi ro nợ công Việt Nam dựa vào số liệu sổ sách!
Tại bản tham luận này, nhóm tác giả cũng lưu ý, mức nợ công của Việt Nam hiện vẫn đang được đánh giá là trong phạm vi kiểm soát, nhưng nếu xét trên cấu trúc nợ của Việt Nam, thực tế có thể nghiêm trọng hơn rất nhiều. Dẫn đánh giá của chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, bản tham luận cho biết, “Hiện nay về cách tính nợ công của Việt Nam và quốc tế có sự vênh nhau, không khớp với nhau. Điều đó có nghĩa nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ của một số chính quyền địa phương hoặc tổ chức thuộc nhà nước được nhà nước không tính vào đó. Trước quốc tế thực chất hiện nay với khối nợ của doanh nghiệp nhà nước cực kỳ lớn thì trong tình hình như vậy mức nợ công không phải là dưới 65%. Thực tế các chuyên gia, các nhà khoa học không phải tổ chức nước ngoài người ta tính toán nợ công trên 100% tức là trên mức báo động rất nhiều. Với tỷ lệ nợ công so với GDP như vậy đồng thời với những khó khăn thách thức cũng như xu hướng nợ công tăng, khả năng chi trả và việc xử dụng không hiệu qủa thì đây là tình trạng đáng báo động…”.
Bên cạnh đó, các tính toán về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam có những sai lệch ở các nguồn khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá rủi ro đối với nợ công Việt Nam không thể dựa trên các khoản nợ ghi nhận trên sổ sách. Những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) dù không được Chính phủ bảo lãnh, nhưng khi gặp vấn đề về khả năng thanh toán, có thể vẫn phải dùng đến ngân sách nhà nước để trả nợ.
Tốc độ tăng trưởng nợ công của Việt Nam mới đang là vấn đề chứ không phải con số nợ (ảnh: FT)
Nguy cơ khủng hoảng nợ tại các thời điểm nóng về đáo hạn nợ
Mặt khác, về mặt chi tiêu công, Việt Nam hiện ở mức rất cao so với các nước. Quy mô chi tiêu công tối ưu đối với các nền kinh tế đang phát triển nằm trong khoảng 15-20% GDP. Số liệu của ADB năm 2011 cho thấy, Hồng Kông, Đài Loan, Indonesia và Singapore là những nước có quy mô chi tiêu chính phủ nhỏ nhất, từ 15-18% GDP. Trong khi đó, chi tiêu chính phủ của Việt Nam luôn vượt xa mức tối ưu này, và chiếm tới hơn 30% GDP trong những năm gần đây. Mức bội chi ngân sách tiếp tục tăng từ mức dự kiến 224.000 tỷ đồng trong năm 2014 lên 226.000 tỷ đồng năm 2015. Việc điều chỉnh và cắt giảm chi tiêu công có cải thiện nhưng chưa hiệu quả, bộ máy công quyền hiện vẫn cồng kềnh và tốn kém.
Trong khi đó, thu ngân sách lại thiếu bền vững, đặc biệt là các khoản thu từ dầu thô và các tài nguyên khác do các nguồn này là hữu hạn, phụ thuộc vào thị trường thế giới. Vừa qua, giá dầu thế giới liên tục giảm mạnh, gây thất thoát không nhỏ cho thu ngân sách: thu từ dầu thô giảm từ 28,8% tổng thu ngân sách xuống còn 11,6% trong năm 2011 và ước khoảng 10,2% cho năm 2015.
Về rủi ro trả nợ công, đối với nợ trong nước, nhóm tác giả chỉ ra thực tế rằng, hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện gặp vấn đề về tính thanh khoản và nợ xấu. Nợ trong nước có tỷ trọng tăng nhanh, hiện chiếm tới hơn 50% nhưng chủ yếu là dưới hình thức trái phiếu Chính phủ mà ngân hàng thương mại mua. Mặc dù đã có những điều chỉnh nhằm tăng lượng trái phiếu Chính phủ dài hạn trong tương lai, song ở thời điểm hiện tại thì các khoản nợ này chủ yếu vẫn là lãi suất khá cao (8-10%) và ngắn hạn (2-5 năm). Với rủi ro lãi suất cao và kỳ hạn ngắn, nghĩa vụ trả nợ trong nước sẽ vô cùng nặng nề, áp lực tăng cung tiền trả nợ dẫn đến lạm phát.
Trong khi đó, áp lực trả nợ nước ngoài hiện giảm nhẹ một phần nhờ việc Chính phủ phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn 10 năm ra thị trường vốn quốc tế với lãi suất ở mức 4,8% vào ngày 6/11/2014. Việc này giúp giải quyết một số nghĩa vụ nợ ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo (2016-2020), hai lô trái phiếu quốc tế phát hành trước đó sẽ đáo hạn (1 lô trị giá 750 triệu USD năm 2005 và 1 lô 1 tỷ USD năm 2010); lô thứ ba đáo hạn năm 2024.
“Có thể khẳng định rằng áp lực trả nợ nước ngoài dưới hình thức trả nợ trái phiếu quốc tế sẽ rất lớn và trường kỳ, có khả năng đưa Việt Nam rơi vào nguy cơ của một cuộc khủng hoảng nợ tại các thời điểm nóng về đáo hạn nợ” – TS Trần Đình Thiên và các cộng sự cảnh báo.
Một rủi ro khác, đó là với việc các khoản vay ODA đối với Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, Việt Nam sẽ dần phải tiếp cận với các khoản vay ít ưu đãi và các khoản vay với điều kiện vay thương mại hoặc các khoản vay có lãi suất thả nổi. Do đó, rủi ro lãi suất, chứ không phải rủi ro tỷ giá, có thể là một yếu tố quan trọng cần được tính đến trong những năm tới.
Bích Diệp