Thương mại toàn cầu sau cuộc chiến Ukraine: Ai được, ai mất?

Nhật Linh

(Dân trí) - Các chuyên gia cảnh báo, hai cuộc khủng hoảng lớn là đại dịch, xung đột Nga - Ukraine có thể dẫn đến một số thay đổi lâu dài đối với chuỗi cung ứng và thương mại toàn cầu.

Đặc biệt, cuộc chiến tại Ukraine đã khiến các nước phải nghĩ đến việc cần có thêm nhiều đối tác thương mại tin cậy.

"Nếu đại dịch Covid-19 nêu bật nhu cầu phải rút ngắn chuỗi cung ứng, thì cuộc chiến ở Ukraine nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có các đối tác thương mại đáng tin cậy", ông Peter Martin, Giám đốc nghiên cứu tại công ty nghiên cứu hàng hóa Wood Mackenzie, cho biết.

Giá năng lượng đã tăng vọt trong năm nay sau cuộc xung đột Nga - Ukraine gây bất ổn cho thị trường dầu toàn cầu và việc phương Tây liên tiếp áp các lệnh trừng phạt đối với Moscow.

Trong tuần này, Liên minh châu Âu (EU) tuyên bố đã đạt được thỏa thuận với các thành viên về cấm nhập khẩu 90% dầu Nga vào cuối năm nay. Trước đó, Moscow cũng đe dọa cắt nguồn cung dầu và khí đốt để trả đũa các lệnh trừng phạt. Các quan chức của Nga cũng cho biết nước này sẽ tìm kiếm các nhà nhập khẩu khác. Thực tế, lượng mua dầu Nga của Trung Quốc và Ấn Độ cũng đã tăng vọt trong năm nay.

Thương mại toàn cầu sau cuộc chiến Ukraine: Ai được, ai mất? - 1

Chiến sự giữa Nga - Ukraine khiến cho kinh tế toàn cầu sẽ trở nên khu vực hóa hơn, chuỗi cung ứng co hẹp hơn trong phạm vi đối tác đáng tin cậy (Ảnh: Getty).

Cuộc xung đột cũng khiến cho các mặt khác quan trọng khác như khí đốt, lúa mì bị ảnh hưởng.

EU nhập khoảng 40% lượng khí đốt tự nhiên từ các đường ống của Nga và 1/4 trong số đó chảy qua Ukraine. Hàng triệu tấn lúa mì từ Ukraine, nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, cũng bị mắc kẹt trong nước, không thể xuất đến các nước cần vì Biển Đen bị phong tỏa.

Theo Andrius Tursa, cố vấn Trung và Đông Âu tại công ty tư vấn Teneo Intelligence, trước chiến tranh, các cảng ở Biển Đen của Ukraine chiếm khoảng 90% lượng xuất khẩu ngũ cốc của nước này.

Cho rằng chiến tranh cũng như đại dịch, ông Martin nói rằng: "Những tác động này có thể dẫn đến sự thay đổi lâu dài của thương mại toàn cầu. Kinh tế toàn cầu sẽ trở nên khu vực hóa hơn, chuỗi cung ứng co hẹp hơn trong phạm vi đối tác đáng tin cậy".

Chia thành các khối thương mại

Tuy nhiên, ông Martin cũng nhấn mạnh, đó không phải là dấu chấm hết của toàn cầu hóa, nhưng thương mại toàn cầu có thể bị chia ra thành 2 hoặc nhiều khối riêng biệt.

Khối thứ nhất, theo ông Martin, bao gồm EU, Mỹ và các đồng minh - những nước đang áp các lệnh trừng phạt đối với Nga và đang liên kết để cô lập Nga. Các đồng minh có thể gồm Anh và Nhật Bản.

Một khối khác có thể là những nước tìm cách làm cầu nối giữa hai bên. Theo ông Martin, khối này sẽ gồm các nước như Trung Quốc và Ấn Độ, một mặt vừa duy trì thương mại với các đồng minh trừng phạt Nga và vừa tiếp tục nhập năng lượng và tài nguyên từ Nga, đồng thời duy trì quan hệ tốt với các nền kinh tế lớn trong khối đầu tiên - những nước chiếm tỷ trọng đáng kể trong nhu cầu xuất khẩu của họ.

Các tuyến thương mại bị ảnh hưởng

Ông Martin cũng cho rằng, lượng hàng hóa được vận chuyển trên các tuyến thương mại trên đất liền và trên biển sẽ bị ảnh hưởng.

Từ khi chiến sự nổ ra, các chủ hàng đã né tuyến vận tải qua Biển Đen, nơi quân đội Nga đã ngăn chặn hoạt động vận chuyển thương mại. Điều đó khiến cho các cảng khác ở châu Âu rơi vào tắc nghẽn do các chủ hàng phải thay đổi lộ trình của họ.

Theo ông Tursa, Ukraine đang buộc phải phát triển các tuyến đường sông và trên đất liền để xuất khẩu các sản phẩm chủ lực, thay thế cho việc xuất khẩu qua các cảng ở Biển Đen.

"Mặc dù năng lực các tuyến đường thay thế được kỳ vọng tăng dần, song việc xuất khẩu như vậy sẽ phức tạp hơn và tốn kém hơn so với đường biển. Đó là chưa kể các cuộc tấn công bằng tên lửa của Nga vào các tuyến đường sắt trên toàn Ukraine có thể khiến việc vận chuyển trở nên khó khăn hơn", ông Tursa nói.

Kẻ thắng, người thua

Theo ông Martin, bất kỳ sự chuyển hướng nào do sự thay đổi đối với thương mại toàn cầu cũng sẽ mang lại lợi ích cho một số nền kinh tế, chẳng hạn như Đông Nam Á, châu Mỹ La tinh và châu Phi.

"Xuất khẩu sẽ bị chuyển hướng đòi hỏi phải tìm được các thị trường mới cho hàng hóa và dịch vụ, đồng thời hoạt động logistics phải được thiết lập để cung cấp cho các luồng thương mại mới", ông nói.

Theo ông Martin, Nga dường như là nước mất nhiều nhất, mặc dù nước này có thể chuyển hướng một số quan hệ thương mại, song Nga sẽ bị loại khỏi một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế toàn cầu.

Trong khi đó, các đợt phong tỏa vì Covid-19 tại Trung Quốc - trung tâm sản xuất của thế giới - cũng góp phần vào sự hỗn loạn của ngành vận tải biển và thương mại.

Theo ông Christian Roeloffs, người sáng lập kiêm CEO của công ty đặt chỗ container Container xChange, trong thời gian tới, sự phụ thuộc vào các tuyến thương mại Đông - Tây giữa Trung Quốc và châu Âu, cũng như giữa Trung Quốc và Mỹ, sẽ ít hơn.

Các tuyến thương mại này có thể bị thay đổi và mang lại lợi ích cho một số quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam. Mặt khác những nơi như Singapore, nơi các tàu hàng thường đi qua trên đường tới Mỹ, có thể sẽ bị bỏ qua khi các chủ hàng đi thẳng từ các trung tâm sản xuất mới nổi như Việt Nam và Campuchia tới bờ Tây nước Mỹ.

Ông Jason McMann - Trưởng bộ phận phân tích rủi ro địa chính trị của Morning Consult - cho biết: "Một số công ty đang bắt đầu sản xuất gần nhà hơn để hạn chế tình trạng chậm trễ giao hàng do đóng cửa nhà máy, giảm nguồn cung lao động và các yếu tố khác".

Họ cũng có thể chuyển sang duy trì lượng hàng tồn kho lớn hơn như một giải pháp chống lại sự gián đoạn trong tương lai, thay vì có chuỗi cung ứng ngắn hơn, ông cho biết thêm.

Theo CNBC