Thái Nguyên: "thịt"… bò sữa

Dự án "Phát triển chăn nuôi bò sữa" triển khai tại tỉnh Thái Nguyên những ngày đầu (tháng 10/2003) được người dân rất hào hứng vay vốn xây dựng chuồng trại, mua con giống... "Giấc mơ" làm giàu từ việc nuôi bò sữa gần như tan biến và thay vào đó là nỗi lo làm sao tiêu thụ được sản phẩm, thu hồi vốn trả nợ ngân hàng...

Cách đây 3 năm, gia đình anh Tạ Duy Hiển, xã Đồng Tiến, huyện Phổ Yên, Thái Nguyên là một hạt nhân trong dự án phát triển đàn bò sữa ở tỉnh Thái Nguyên. Anh được dự án giúp đầu tư hai con bò sữa, nhưng một con mới bị chết.

Con bò sữa còn lại, sau 3 năm, nó trở thành một trong những con bò cuối cùng còn sót lại của dự án. Dù mỗi ngày, nó vẫn đều đặn cho 8 - 10 lít sữa, nhưng anh Hiển không thể vui: "Sữa ế chẳng biết làm gì. Nhà dùng không hết, đem chăn chó, chăn lợn…".

Không chỉ lo làm sao bán hết sữa, anh Hiển còn có một nỗi lo khác: "Con bò còn lại duy nhất của gia đình đã qua chu kỳ 7 tháng rồi mà chưa thấy gì. Tôi không biết nó bị làm sao".

Còn gia đình anh Dương Văn Chính, xã Nhã Lộng, huyện Phú Bình (Thái Nguyên) chỉ nuôi một con bò sữa, nhưng chưa kịp cho sữa nó đã chết. Bây giờ anh phải nuôi lợn để trả nợ tiền mua bò.

Người hàng xóm của anh Chính cũng tham gia vào dự án bò sữa. Bây giờ, con bò mẹ đã chết, còn con bò con thì không cho sữa. Bây giờ, gia đình họ không biết làm thế nào với con bò này, không lẽ lại bán nó để thịt như nhiều nhà khác đã làm?

Dự án bò sữa của tỉnh Thái Nguyên, ban đầu được đánh giá là một dự án khả thi, với mục tiêu đến năm 2005, số bò sữa của cả tỉnh là 650 con, đủ cung cấp cho Nhà máy sữa. Nhưng thực tế là đến nay, chỉ còn lại chưa đầy chục con. Nhà máy sữa không thu mua sữa vì sản lượng quá ít.

Còn những người dân trong dự án phát triển bò sữa, dù không muốn, hàng ngày vẫn tiếp tục phải đi bán sữa rong, mà biết chắc ngày nào cũng ế vài chai mang về để chăn nuôi.

Việc đổ bể dự án bò sữa không chỉ xảy ra tại Thái nguyên, mà hiện nay, hầu hết các dự án bò sữa trên cả nước cũng đang sống dở chết dở. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, tuy nhiên, điều dễ nhận thấy nhất từ dự án này đó là vấn đề khảo sát nghiên cứu không thực sự đầy đủ.

Một ví dụ cho thấy bất cập này là từ khí hậu, tập quán chăn nuôi bò của nông dân Việt Nam và nông dân các nước có giống bò sữa mà chúng ta nhập về rất khác nhau. Cũng một con bò, nếu ở nước ngoài cho 20 lít sữa/ngày, nhưng về Việt Nam chỉ 10 - 12 lít.

Hiện nay, lượng sữa bò sản xuất trong nước mới đáp ứng 20% nhu cầu chế biến của các nhà máy. 80% còn lại là phải nhập khẩu, điều đáng nói là giá sữa nguyên liệu nhập khẩu còn rẻ hơn giá sữa sản xuất.

Theo Kha Thoa
VTV