Ngành xi măng là lời giải bất ngờ cho 70.000 tấn rác thải/ngày
(Dân trí) - Mỗi ngày, Việt Nam phát sinh khoảng 70.000 tấn rác sinh hoạt, phần lớn vẫn chôn lấp. Đồng xử lý trong các nhà máy xi măng được chuyên gia đánh giá là giải pháp tiềm năng, hiệu quả và bền vững.
Chiều 3/10, tại hội thảo “Từ thí điểm đến chính sách: Giải quyết rác thải nhựa không thể tái chế thông qua đồng xử lý trong ngành xi măng”, ông Hoàng Thành Vĩnh - đại diện Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam - cho biết, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta hiện nay ước tính khoảng 70.000 tấn/ngày.
70.000 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày chủ yếu được chôn lấp
Trong số này, Hà Nội phát sinh khoảng 7.500 tấn/ngày và TPHCM lên tới 14.000 tấn/ngày. Tính theo khu vực, các đô thị chiếm 60% tổng lượng rác, còn lại 40% thuộc về nông thôn. Đáng lo ngại, lượng rác thải dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh với tốc độ 10-15% trong ngắn hạn.
Ông Vĩnh cho biết, trung bình mỗi ngày, công tác thu gom và xử lý rác tiêu tốn khoảng 3,35 triệu USD, tương đương gần 1,2 tỷ USD mỗi năm. Hiện nay, phương pháp xử lý phổ biến nhất vẫn là chôn lấp (chiếm 64%). Các hình thức khác gồm sản xuất phân hữu cơ (16,1%) và đốt rác phát điện (12,69%).
Tương tự, ông Palash Kumar Saha, Cố vấn cấp cao SINTEF (một trong những viện nghiên cứu độc lập lớn nhất châu Âu), cho biết mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 40kg nhựa/năm, gấp 10 lần so với năm 1990. Hơn 3,5 triệu tấn rác thải nhựa phát sinh mỗi năm, trong đó 60-70% đưa vào hơn 1.180 bãi chôn lấp, phần lớn không hợp vệ sinh.
"Tỷ lệ tái chế hiện nay chỉ khoảng 20%, chủ yếu tập trung vào nhựa PET (chai nước giải khát, bao bì thực phẩm) và HDPE (chai nhựa, can, ống dẫn nước), trong khi các loại nhựa dẻo khác hầu như chưa được tái chế", ông chia sẻ.
Theo ông Hoàng Thành Vĩnh, mặc dù đã có nhiều chương trình giảm thiểu nhựa, trong đó Hà Nội cũng đã đưa ra lộ trình cấm các sản phẩm nhựa dùng một lần, nhưng thực tế lượng tiêu thụ vẫn tiếp tục gia tăng. Chủ yếu do nhu cầu tất yếu của xã hội, đặc biệt sau đại dịch Covid-19, khi hoạt động giao hàng nhanh và đặt hàng trực tuyến ngày càng phát triển.

Rác thải sinh hoạt được tập kết về Nhà máy Điện rác Sóc Sơn (Hà Nội) (Ảnh: Quân Đỗ).
"Lực lượng lao động tự do và công nhân đã thu gom phần lớn các loại nhựa có giá trị cao, tuy nhiên lượng rác thải còn lại, đặc biệt là nhựa, vẫn chủ yếu được chôn lấp, gây rủi ro lớn về vi nhựa và ô nhiễm môi trường", vị này đánh giá.
Bên cạnh đó, đại diện UNDP Việt Nam cho biết hiện nay, các dự án đốt rác phát điện đang phát triển nhanh chóng và tiếp tục được triển khai trong thời gian tới. Tuy nhiên, việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn vẫn còn nhiều thách thức, đòi hỏi thời gian và sự quyết liệt từ chính quyền.
Biến rác thải thành nguyên liệu sản xuất xi măng
Bên cạnh điện rác và sản xuất mùn hữu cơ, đồng xử lý cũng được xem là giải pháp tiềm năng trong xử lý chất thải. Phương pháp này tận dụng rác thải làm nguyên liệu hoặc nhiên liệu thay thế trong sản xuất công nghiệp, điển hình tại các lò xi măng, giúp xử lý hiệu quả rác khó tái chế, đồng thời giảm phụ thuộc vào nguyên liệu truyền thống.
Theo ông Hoàng Thành Vĩnh, hiện nay, phần lớn hoạt động đồng xử lý mới tập trung vào chất thải công nghiệp và nguy hại, trong khi chất thải rắn sinh hoạt chưa được xử lý, dù lộ trình và điều kiện vận chuyển khá thuận lợi.
"Các nhà máy xi măng vẫn có nhu cầu lớn và khả năng tiếp nhận đáng kể cho đồng xử lý, song song với đó nhiều dự án đốt rác phát điện cũng đang tiếp tục được triển khai xây dựng", ông chia sẻ.
So với phương pháp đốt rác phát điện đang phát triển mạnh mẽ gần đây, đồng xử lý có nhiều ưu thế nổi bật. Tuy vậy, ông cho rằng vẫn còn những thách thức cần vượt qua, như hạn chế về công nghệ, sự ổn định và đồng nhất của chất thải sinh hoạt, rào cản từ chính sách, cơ chế khuyến khích, định mức - đơn giá, thủ tục cấp phép môi trường và kiểm soát an toàn...

Nhà máy Điện rác Sóc Sơn (Hà Nội) là nhà máy đốt rác phát điện lớn nhất Việt Nam (Ảnh: Quân Đỗ).
Theo ông Palash Kumar Saha, hiện Việt Nam có 7 nhà máy điện rác đang hoạt động, lớn nhất là Sóc Sơn (Hà Nội) với công suất 4.500 tấn/ngày, nhưng tổng công suất mới đạt khoảng 300MW, so với tiềm năng 1.400MW.
Trong khi đó, ngành xi măng với 61 nhà máy, 87 lò nung có khả năng đồng xử lý chất thải. Tuy nhiên, tỷ lệ thay thế nhiệt (TSR) hiện dưới 5%, ngoại trừ một số đơn vị đạt 35-40%. Cả nước mới có 13-15 dây chuyền được cấp phép đồng xử lý khoảng 5 triệu tấn/năm, đặt mục tiêu nâng TSR quốc gia lên 30% vào năm 2050.
"Nếu không có giải pháp quyết liệt, mỗi năm sẽ có khoảng 373.000 tấn nhựa phát thải ra biển, đến năm 2030 con số này có thể gấp đôi so với 2018", ông cảnh báo.
Theo vị này, đồng xử lý đã được chứng minh là một giải pháp hiệu quả, có thể mở rộng quy mô, tiết kiệm chi phí và thân thiện với môi trường, điển hình qua dự án OPTOCE tại châu Á.
"Mô hình đốt rác phát điện có thể bổ trợ cho đồng xử lý, trong đó ưu tiên đưa chất thải nhựa khó tái chế vào các nhà máy xi măng, kết hợp với hệ thống trung tâm RDF và cơ chế định giá, chi phí xử lý dựa trên chất lượng; còn mô hình điện rác chỉ nên áp dụng tại các đô thị lớn, nơi có nhu cầu năng lượng cao và hệ thống kiểm soát phát thải nghiêm ngặt", ông lưu ý.
Để mở rộng quy mô đồng xử lý, vị chuyên gia cho rằng cần nâng cao năng lực, thực thi chính sách nghiêm ngặt và có các cơ chế khuyến khích tài chính nhằm tạo “sân chơi công bằng”. Bên cạnh đó, việc áp dụng các công cụ số và mô hình hợp tác công - tư (PPP) sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình thực hiện kinh tế tuần hoàn.











