Đầu tư vàng trên mạng: Mất tiền thật vì giao dịch ảo

Tất cả các lệnh giao dịch của khách hàng trên phần mềm ICTS qua mạng Internet đều là các giao dịch ảo. Việc lời, lỗ trên các tài khoản của khách hàng cũng đều là ảo. Số tiền, vàng giao dịch bị lỗ ảo trên tài khoản là tiền Phạm Ngọc Vân chiếm đoạt được.

Viện KSND Tối cao vừa hoàn tất cáo trạng vụ Phạm Ngọc Vân (nguyên Giám đốc Công ty CP Tư vấn đầu tư Việt Tín) và ủy quyền cho Viện KSND TP HCM chuyển hồ sơ sang TAND TP HCM để xét xử với cáo buộc về hành vi lừa đảo thông qua hình thức kêu gọi đầu tư vàng trên mạng Internet.

 

Với việc giá vàng, ngoại tệ diễn biến thất thường suốt thời gian qua thì đây là một trong những vụ điển hình nhất về hoạt động đầu tư mua bán vàng, ngoại tệ trái phép trên mạng Internet vốn đầy rẫy thủ đoạn lừa đảo…

 

Lừa đảo có hệ thống

 

Công ty CP Tư vấn đầu tư Việt Tín (trụ sở ở quận Phú Nhuận, TP HCM) được thành lập tháng 2/2006 do Phạm Ngọc Vân (28 tuổi, tạm trú quận Phú Nhuận, TP HCM) làm Giám đốc, với chức năng kinh doanh tư vấn đầu tư, tư vấn quản lý doanh nghiệp, đại lý đổi ngoại tệ.

 

Thế nhưng thực tế công ty này hầu như không có hoạt động kinh doanh nào đáng kể ngoài việc “dụ dỗ” những người nhẹ dạ cả tin “lướt sóng” đầu tư vàng, ngoại tệ trái phép trên mạng Internet.

 

Theo cáo trạng và hồ sơ điều tra của Bộ Công an, từ tháng 6/2008, Vân lập trang web http//www.vfxholdings.com để quảng bá Công ty VFX Holdings là một sàn giao dịch vàng, ngoại tệ quốc tế trực tuyến với công nghệ hàng đầu thế giới.

 

Đến tháng 8/2008, đồng Giám đốc của Công ty VFX Holdings là Mike Nguyễn (Việt kiều Mỹ) ký Hợp đồng thuê phần mềm ICTS (là công nghệ dùng cho hoạt động kinh doanh điện tử) của Công ty ACT Forex (tại New York, Mỹ) để cập nhật giá các loại hàng hóa như vàng, ngoại hối tương đồng với giá thị trường để người tham gia kinh doanh điện tử tham chiếu khi đặt lệnh mua bán.

 

Đầu tư vàng trên mạng: Mất tiền thật vì giao dịch ảo - 1
Phạm Ngọc Vân tại Cơ quan điều tra

 

Chính Phạm Ngọc Vân trực tiếp tập huấn cho nhân viên về nghiệp vụ quảng bá, thao tác cài đặt cho khách hàng hoặc hướng dẫn khách hàng tải phần mềm ICTS từ trang web vfxholdings.com về cài đặt trên máy vi tính để tham gia kinh doanh điện tử. Ngoài ra Vân còn tổ chức cho một số nhân viên đi tiếp thị, mời gọi khách hàng nộp tiền để tham gia giao dịch vàng, ngoại tệ qua mạng trên phần mềm ICTS.

 

Khách hàng muốn tham gia kinh doanh điện tử trên phần mềm ICTS thì được Vân yêu cầu ký bản Thỏa ước giao dịch điện tử với Công ty VFX Holdings có nội dung VFX sẽ mở một tài khoản dưới tên của khách hàng và sẽ giữ các sổ sách liên quan đến tài khoản của khách hàng.

 

Sau khi ký Thỏa ước giao dịch điện tử và hợp đồng thì khách hàng tiến hành nộp tiền, mức tối thiểu là 2.000USD. Sau đó, khách hàng được Phạm Ngọc Vân cung cấp cho 1 tài khoản giao dịch điện tử, kèm theo tên của tài khoản để đăng nhập vào phần mềm ICTS qua Internet.

 

Theo thỏa thuận thì khách hàng có thể nộp tiền ký quỹ vào tài khoản của Công ty VFX Holdings mở tại Ngân hàng HSBC Hongkong để tham gia giao dịch vàng hoặc có thể nộp trực tiếp cho Công ty Việt Tín tại Việt Nam để công ty này chuyển tiền vào tài khoản trên cho Công ty VFX Holdings.Khi khách hàng nộp tiền hay rút tiền ký quỹ thì Vân sẽ trực tiếp đăng nhập vào tài khoản quản lý trên phần mềm ICTS.

 

Qua điều tra cho thấy, toàn bộ số tiền mà khách hàng nộp ký quỹ chỉ được điều chỉnh tăng trên tài khoản giao dịch, không được chuyển vào tài khoản của Công ty VFX Holdings mở tại Ngân hàng HSBC Hongkong hoặc bất kỳ một trung tâm thanh toán nào để hạch toán cho các giao dịch điện tử trên phần mềm ICTS, mà giữ lại trực tiếp quản lý và sử dụng.

 

Số tiền này chỉ sử dụng để trả cho khách hàng khi có yêu cầu rút tiền chứ không sử dụng vào việc gì khác. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, Phạm Ngọc Vân không chứng minh được đã trả cụ thể cho ai, bao nhiêu tiền và cũng không có sổ sách theo dõi.

 

Kết quả điều tra xác minh cho thấy, khách hàng sử dụng tài khoản được cấp để đăng nhập vào phần mềm ICTS rồi đặt các lệnh giao dịch vàng, ngoại tệ. Tất cả các lệnh giao dịch của khách hàng trên phần mềm ICTS qua mạng Internet đều là các giao dịch ảo. Việc lời, lỗ trên các tài khoản của khách hàng cũng đều là ảo. Số tiền, vàng giao dịch bị lỗ ảo trên tài khoản là tiền Phạm Ngọc Vân chiếm đoạt được.

 

Tin tưởng, một số nhà đầu tư đã mở tài khoản và nộp tiền mặt, tối thiểu là 2.000 USD cho Công ty Việt Tín để được nhận lại tài khoản giao dịch và mật khẩu. Tuy nhiên, toàn bộ số tiền khách hàng ký quỹ và tham gia giao dịch vàng, ngoại tệ, tất cả đã bị Vân giữ lại chi tiêu cá nhân. Khi khách hàng nộp hay rút tiền ký quỹ thì Vân sẽ trực tiếp đăng nhập vào tài khoản quản lý để điều chỉnh cho số tiền tăng lên hoặc giảm đi tương ứng. Một bằng chứng điều tra cho thấy có ít nhất 3 “nhà đầu tư” đang sở hữu tài khoản có số tiền từ 70.000USD đến hơn 100.000USD, đột ngột bị “đánh sập” mà không hiểu vì lý do gì cùng với thái độ phủ nhận trách nhiệm của Vân thì sự việc mới được tố cáo đến Cơ quan Công an. Cơ quan tố tụng đã đủ cơ sở kết luận vị giám đốc này có hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền của khách hàng tổng số tiền là khoảng 6 tỉ đồng.

 

Cần cảnh giác

 

Theo nhìn nhận của các cơ quan chức năng, loại tội phạm lừa đảo lợi dụng hoạt động tư vấn đầu tư vàng, ngoại tệ thông qua mạng Internet là cực kỳ phức tạp, nhất là vào giai đoạn “tranh tối tranh sáng” của thị trường vàng bạc, ngoại tệ như hiện nay. Đã có thời kỳ số nạn nhân bị lôi kéo tham gia vào loại hình này cứ tăng theo cấp số nhân với số tiền bị chiếm đoạt rất lớn.

 

Theo nghiên cứu của các chuyên gia phòng chống tội phạm công nghệ cao của Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm, thủ đoạn bọn tội phạm thường dùng là núp bóng một công ty hay doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh tư vấn hoặc môi giới, có trụ sở giao dịch cố định, tự tạo ra website có nguồn gốc nước ngoài in thư mời, quảng cáo và cho nhân viên đi tiếp thị.

 

Sau khi mời được người dân tham gia đầu tư, chúng cho nhân viên đến tận nhà hướng dẫn cách cài đặt máy tính để kết nối với website do chúng tự tạo ra, hướng dẫn cách phân tích nhận định giá vàng, ngoại tệ thông qua mạng Internet.

 

Đầu tư vàng trên mạng: Mất tiền thật vì giao dịch ảo - 2
Cơ quan điều tra bắt và khám xét nhà riêng của Phạm Ngọc Vân

 

Trường hợp của Công ty Việt Tín là một dẫn chứng điển hình cho thủ thuật lừa đảo như vậy. Sau khi chiêu dụ được “nhà đầu tư”, bọn chúng đưa hợp đồng tư vấn, môi giới (in sẵn) cho khách hàng ký, cấp cho mỗi người một tài khoản hướng dẫn tạo mật khẩu để theo dõi tài khoản giao dịch của mình. Khi thu tiền đặt cọc của “nhà đầu tư”, chúng chỉ viết tay giấy biên nhận hứa hẹn rằng bản chính đã chuyển ra nước ngoài rồi ký và chuyển về sau cho “nhà đầu tư”.

 

Theo phân tích của các chuyên gia, khi tham gia rồi, nhiều nạn nhân vẫn không biết tiền của mình để ở đâu. Các giao dịch và thỏa thuận chủ yếu là thông qua nhân viên của công ty. Đối tượng chủ mưu cầm đầu không trực tiếp thực hiện các giao dịch này. Có 2 dạng đầu tư, nếu ủy thác đầu tư qua công ty của chúng thì số tiền tham gia ít nhất phải từ 5.000USD trở lên với lãi suất dao động 5–20%/tháng. Với dạng này, chúng thường lấy tiền của người sau trả cho người trước. Khi đã gom được số tiền lớn thì chiếm đoạt và bỏ trốn. Nếu trực tiếp kinh doanh thì số tiền đặt cọc là 7-10% trên giá trị mua vàng, ngoại tệ.

 

Mặc dù dư luận đã nhiều lần phản ánh thủ đoạn lừa đảo qua các loại hình kinh doanh này nhưng tội phạm vẫn tiếp tục hoạt động được là do đánh trúng vào lòng tham của nhiều người. Dù nhiều người đã nhận thức được việc kinh doanh này tiềm ẩn rủi ro, không rõ ràng, nhưng vì lợi nhuận, họ vẫn tham gia và rủ rê, lôi kéo nhiều người khác tham gia.

 

Trên thực tế, nhà đầu tư chỉ nhận được tiền lãi bằng điểm ảo và bán lại cho nhau để kiếm lời. Một số có nhận được một phần tiền lãi, thực chất là tiền vốn của chính nhà đầu tư. Việc trả tiền lãi này cũng chỉ nhằm để quảng cáo, lôi kéo thêm người vào đầu tư và số tiền lãi đã trả chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với số vốn đầu tư đã nhận được.

 

Do vậy, để phòng ngừa loại hình tội phạm này các cơ quan thực thi pháp luật cần nhanh chóng điều tra, xét xử các vụ án điển hình, cũng như cần tuyên truyền giải thích rộng rãi trong người dân, chỉ ra những phương thức, mánh khóe, thủ đoạn mà loại tội phạm này lợi dụng nhằm giúp khuyến cáo người dân nâng cao cảnh giác.

 

Theo Thế Vinh

Petrotimes