(Dân trí) - Dự đoán về tăng trưởng kinh tế trong năm 2022, nhiều nhà kinh tế đều có những nhận định lạc quan rằng kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng tốc trong năm tới.
Dạo quanh Hà Nội, không khó để cảm nhận được nguồn năng lượng vô tận từ khắp nơi, mọi ngóc ngách phố xá. Người ta chạy xe tay ga, mua bán đủ thứ từ điện thoại đến đồ ăn trong vô số các cửa hàng lớn nhỏ. Người lớn đi làm. Trẻ con đi học. Việt Nam đang trẻ, đang phát triển và mọi thứ đều có thể.
Đó là cảm nhận của ông Peter Vanham, một cây viết chuyên về kinh tế cho nhiều báo và tạp chí nổi tiếng như Financial Times, Business Insider, Forbes, về Việt Nam trong bài viết với tựa đề "Câu chuyện thần kỳ về kinh tế Việt Nam" khi ông đến Việt Nam tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Asean hồi năm 2018.
Ông Peter Vanham kinh ngạc đặt câu hỏi điều gì khiến một nước nghèo bậc nhất thế giới cách đây 30 năm như Việt Nam có thể vươn lên trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình? Và không chỉ vậy, giờ đây, Việt Nam đang là một trong những ngôi sao sáng trong các nền kinh tế mới nổi, với tốc độ tăng trưởng 6-7% năm, ngang ngửa với Trung Quốc.
Kinh tế Việt Nam trước Đổi mới 1986 là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Theo Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP trung bình mỗi năm là 4,65%. Nhìn chung, tăng trưởng thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, chiếm 38,92%.
Tuy nhiên, kể từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế, tăng trưởng GDP đã cải thiện và tăng trưởng với mức 6,51% trong giai đoạn 1986-2000 và 7,26% trong giai đoạn 2001-2010.
Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008. Quy mô nền kinh tế cũng ngày càng mở rộng.
Từ năm 1989 khi Việt Nam bị Mỹ cấm vận, quy mô của nền kinh tế chỉ ở mức 6,3 tỷ USD. Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận và Việt Nam gia nhập Asean, quy mô của nền kinh tế tăng dần. Đặc biệt từ năm 2002-2007, quy mô của nền kinh tế tăng mạnh khi Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ có hiệu lực.
Và với sự gia nhập WTO vào cuối năm 2006, đầu năm 2007, quy mô của nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có sự tăng trưởng vượt bậc. Đến năm 2019, GDP của Việt Nam đã gấp 12,5 lần so với năm 2001.
"Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng như vậy, đất nước này đã từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành một nước có thu nhập trung bình khá", ông Peter Vanham viết. Và GDP bình quân đầu người từ chỉ 230 USD vào năm 1985, đến năm 2017, con số này đã gấp hơn 10 lần lên 2.343 USD, nếu được hiệu chỉnh theo sức mua, con số này thậm chí còn cao hơn, ở mức hơn 6.000 USD.
Trong một bài viết về câu chuyện thành công của nền kinh tế Việt Nam trên Forbes năm 2016, tác giả Brett Davis đã cho rằng, thường thì người ta vẫn hay đánh giá một nền kinh tế bằng các chỉ số kinh tế ngắn hạn nhưng đôi khi cần phải lùi lại quá khứ để có cái nhìn bao quát hơn.
Theo tác giả, cách đây hơn 30 năm, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nhưng giờ đây nhiều du khách quốc tế khi đến Việt Nam đã phải ngỡ ngàng trước các cao ốc văn phòng, cửa hàng bán đồ cao cấp và những con phố tấp nập.
Internet cũng rất phát triển và phổ biến ở Việt Nam: Mọi quán cà phê, nhà hàng, hay quán bar đều cung cấp wifi miễn phí cho khách và rất tiện ích cho việc truy cập internet bằng điện thoại di động.
Theo đánh giá của IHS Market, trước đại dịch, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong thập kỷ qua, với tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt 7% trong năm 2018 và 2019 nhờ sự thúc đẩy mạnh mẽ từ dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất.
Điều đó có thể được nhìn thấy từ thực tế cuộc sống. Bất cứ thứ gì, từ quần áo thể thao của Nike đến điện thoại thông minh của Samsung, cũng đều được sản xuất tại quốc gia Asean này.
Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh tế đã giảm đáng kể trong năm 2020 do tác động của đại dịch Covid-19. Mặc dù tăng trưởng chậm lại, song Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong số rất ít những nền kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đạt được sự tăng trưởng trong năm 2020 khi phần còn lại của thế giới rơi vào suy thoái. Cụ thể, bất chấp đại dịch Covid-19, năm 2020, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,9% trong bối cảnh nhiều nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới tăng trưởng âm.
Trong nửa đầu năm 2021, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh với GDP tăng 6,6% trong quý II. Tuy nhiên, "làn sóng Delta" trong quý III đã tác động mạnh đến tăng trưởng của kinh tế Việt Nam khiến GDP giảm 6,17% khi chi tiêu tiêu dùng, hoạt động xây dựng và sản xuất chế tạo bị ngưng trệ. Do đó, IHS Market dự báo, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm nay dự kiến sẽ ở mức vừa phải 2,3%.
Theo IHS Market, đà phục hồi mạnh sẽ diễn ra trong năm 2022 với tốc độ tăng trưởng dự báo là 6,3% so với cùng kỳ năm trước nhờ việc tăng cường triển khai vaccine giúp nới lỏng dần các biện pháp hạn chế và cho phép mở cửa du lịch quốc tế trở lại.
Thực tế, sự phục hồi kinh tế của Việt Nam đã bắt đầu trong quý IV này. Chỉ số PMI sản xuất của IHS Markit Việt Nam trong tháng 10 cho thấy có sự phục hồi mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên, sự phục hồi kinh tế vẫn gặp phải những trở ngại do sự gia tăng mới của các ca nhiễm Covid -19 cũng như sự gián đoạn chuỗi cung ứng.
Và trong ngắn hạn, những rủi ro từ biến thể mới Omicron vẫn hiện hữu trừ phi Việt Nam tăng tốc hoàn thành tỷ lệ tiêm vaccine trong những tháng tới. Mặc dù vậy, về triển vọng kinh tế trung hạn, IHS Market cho rằng nhiều động lực tăng trưởng vẫn tích cực và sẽ tạo nền tảng vững chắc không chỉ cho tăng trưởng GDP mà còn giúp GDP đầu người tăng lên.
Theo dự đoán của IHS Market, GDP của Việt Nam sẽ tăng từ mức 270 tỷ USD trong năm 2020 lên mức 433 tỷ USD trong năm 2025 và 687 tỷ USD vào năm 2030. Điều đó có nghĩa GDP đầu người sẽ tăng rất nhanh, từ mức 2.785 USD trong năm 2020 lên 4.280 USD vào năm 2025 và 6.600 USD vào năm 2030.
Dự đoán về tăng trưởng kinh tế trong năm 2022, nhiều nhà kinh tế đều có những nhận định lạc quan rằng kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng tốc trong năm tới.
Theo nhận định của Economist Intelligence, nền kinh tế Việt Nam sẽ chuyển sang giai đoạn phục hồi trong năm 2022 sau khi dỡ bỏ hầu hết các hạn chế liên quan đến Covid-19 từ cuối năm 2021. Sản xuất theo định hướng xuất khẩu tiếp tục là động lực quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế. Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2022 - 2026.
Nói với CNBC hồi đầu năm, ông Kelvin Tay từ UBS Global Wealth Management cho biết, triển vọng kinh tế của Việt Nam là tích cực và "có tiềm năng lớn".
"Việt Nam là một thị trường mà chúng tôi thích", ông Tay nói trong chương trình "Squawk Box Asia" và cho biết: "Đó là một nền kinh tế mà chúng tôi đánh giá rất tiềm năng" và tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đang "vượt xa" so với các nền kinh tế có chung đường biên giới.
"Việt Nam là nước hưởng lợi lớn từ xu hướng tái định cư hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc trong vài năm qua. Chúng tôi nhận thấy xuất khẩu của Việt Nam có nhiều khả năng tăng trưởng trong những năm tới", Fitch Solutions cho biết trong một báo cáo vào tháng 12 năm ngoái.
Lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam, vốn bị ảnh hưởng nặng nề trong đại dịch, cũng được dự báo sẽ sớm phục hồi. Các nhà kinh tế cho biết mức độ phục hồi của ngành dịch vụ - đặc biệt là du lịch - sẽ quyết định mức độ nhanh chóng phục hồi trở lại của nền kinh tế Việt Nam như trước đại dịch.
Tại buổi đối thoại với các chuyên gia, đối tác quốc tế tại Hội nghị trực tuyến chuyên sâu về Việt Nam thảo luận các chiến lược để tối ưu cơ hội đầu tư vào Việt Nam sau đại dịch với chủ đề "Việt Nam - ngôi sao đang lên" vào năm ngoái, ông CK Tong - Tổng giám đốc BW Industrial Development JSC - cũng khẳng định: "Dù có Covid-19 hay không, Việt Nam vẫn giữ vị trí thuận lợi để đón làn sóng Trung Quốc+1". Theo ông, kinh tế Việt Nam sẽ vượt qua Thái Lan, Indonesia, Philippines trong những năm tới.
TS Chayodom Sabhasri, Khoa Kinh tế thuộc Đại học Chulalongkorn (Thái Lan) cũng nhấn mạnh: "Kinh tế Việt Nam đang thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Gần đây, rõ ràng, đầu tư nước ngoài trực tiếp của phương Tây đã chuyển từ một số thành viên ASEAN sang Việt Nam. Đầu tư của Nhật Bản ở Thái Lan năm 2020 cũng đã chuyển hướng sang Việt Nam. Chắc chắn, Việt Nam sẽ sớm theo kịp các thành viên hàng đầu ASEAN".
Tờ Bangkok Post cũng nhận định cả hai nước Việt Nam và Thái Lan đều được xếp hạng là thu nhập trung bình và mặc dù Thái Lan đang được xếp hạng cao hơn nhưng trong vòng 20 năm tới Thái Lan sẽ không có nhiều tiến bộ hơn, trong khi đó Việt Nam có thể đạt mức thu nhập cao vào năm 2045.
Nền kinh tế Thái Lan trong những năm từ 1960-1990 luôn tăng trưởng với tốc độ trung bình 7,5%. Nhưng trong suốt giai đoạn 2008-2018, tốc độ tăng trưởng của nước này đã giảm mạnh, thậm chí xuống âm 0,7% vào năm 2009. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam ổn định hơn với tổng độ tăng trưởng từ 5,2% trong năm 2012 đến 7,1% trong năm 2018. Việt Nam đã duy trì mức tăng trưởng ổn định 7% và được đánh giá là một trong những câu chuyện kinh tế thành công của thế kỷ 21.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2018 cao gấp 1,7 lần so với Thái Lan. Các chỉ số khác như thu hút FDI, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và chi tiêu tiêu dùng cũng đã vượt Thái Lan.
Số liệu phân tích xuất khẩu mặt hàng công nghệ cao năm 2016 cho thấy, Việt Nam đạt tổng kim ngạch là 55,2 tỷ USD, trong khi Thái Lan chỉ đạt 8,8 tỷ USD. Con số này phản ánh rằng, dù đi sau hàng thập kỷ, nền kinh tế Việt Nam vẫn có khả năng cạnh tranh và vượt qua Thái Lan, tờ Bangkok Post viết.
Trong bài viết với tựa đề "Điều gì khiến Việt Nam hấp dẫn hơn Thái Lan trong thu hút vốn đầu tư vào sản xuất" mới đây, BW Industrial cũng cho rằng, trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung kéo dài sang năm thứ 4, thúc đẩy làn sóng chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam được coi là hai điểm đến đầy hứa hẹn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó, Việt Nam có những lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối thủ trong khu vực nhờ nhiều lợi thế.
Thứ nhất về dân số. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang có sự chuyển đổi nhanh chóng về dân số và cơ cấu xã hội. Dân số Việt Nam năm 2020 là hơn 97 triệu người và dự kiến sẽ đạt 120 triệu người vào năm 2050. Trong đó, 70% dân số dưới độ tuổi 35 và tuổi thọ trung bình là 76 tuổi, cao nhất trong số các nước có mức thu nhập tương tự ở Asean. Chỉ số nhân lực của Việt Nam đứng thứ 48 trong tổng số 157 quốc gia và đứng thứ 2 ở Asean sau Singapore.
Trong khi đó, quy mô dân số của Thái Lan là 70 triệu người. Trong đó, hơn 1/4 dân số sẽ trên 60 tuổi vào năm 2030, trong khi tỷ lệ sinh liên tục giảm mạnh trong nhiều năm qua, theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc vào năm ngoái. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng dự đoán lực lượng lao động sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế Thái Lan trong 2 thập kỷ tới.
Thứ hai về số các hiệp định thương mại tự do. Việt Nam đang từng bước mở rộng lợi thế cạnh tranh bằng việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn. Hiện số lượng các FTA mà Việt Nam tham gia nhiều hơn Thái Lan và các quốc gia trong khu vực, trong đó có những hiệp định lớn như CPTPP, RCEP…
Theo Bộ Công Thương, một năm sau khi có hiệu lực, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã mang lại lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang các nước thành viên.
Ngoài ra, Việt Nam cũng là nước đầu tiên ở Đông Nam Á ký hiệp định thương mại song phương với thị trường EU. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã thúc đẩy đáng kể lợi thế kinh tế của Việt Nam so với Thái Lan.
Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu sau khi EVFTA có hiệu lực dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với khi không có hiệp định.
Thứ 3 là tiêu dùng nội địa tăng mạnh. Khi các điều kiện kinh tế được cải thiện nhanh chóng, GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng đã tăng gấp 3 từ 600 USD trong năm 2005 lên khoảng 2.800 USD vào năm 2019. Thu nhập tăng khiến sức mua cũng tăng lên. Theo báo cáo của WB, tầng lớp trung lưu của Việt Nam hiện chiếm 13% dân số cả nước và được dự đoán sẽ tăng lên 26% vào năm 2026. Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia hàng đầu trong khu vực, bao gồm Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines về sự gia tăng của tầng lớp trung lưu (nhóm có mức sống 15 USD/ngày, theo WB).
Theo Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia (NCIF), sự bùng nổ chi tiêu của tầng lớp trung lưu sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng chi tiêu dùng quốc gia và do đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Thứ 4 là chính trị ổn định. Đây là một trong những yếu tố chính khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn đối với các nhà sản xuất. Câu chuyện thành công của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài phần lớn là nhờ vào hệ thống quản lý tài chính như thuế, kế toán và kiểm soát ngoại hối hiệu quả. Quy trình đăng ký đầu tư và quản lý thuế ở Việt Nam cũng được phân cấp và từng bước cải thiện khi cấp tỉnh và thành phố có quyền quyết định đáng kể về cách thức thành lập và quản lý doanh nghiệp.
Một điểm nữa khiến Việt Nam có lợi thế hơn so với Thái Lan đó là vị trí địa lý. Việt Nam tiếp giáp trực tiếp với Biển Đông, một cầu nối giao thương trọng yếu trên bản đồ hàng hải toàn cầu. Trong 10 tuyến hàng hải lớn nhất thế giới có một tuyến chạy qua và 5 tuyến liên kết với Việt Nam.
Ngoài ra, với vị trí tiếp giáp với Trung Quốc, Việt Nam là lựa chọn hàng đầu ở Đông Nam Á cho các nhà đầu tư nước ngoài trong chiến lược Trung Quốc+1 nhằm tiết giảm chi phí và đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Nhiều nhà sản xuất đã mở rộng dây chuyền sang các quốc gia bên cạnh khi chi phí hoạt động tại Trung Quốc liên tục tăng cao.