DNews

5 định hướng chiến lược để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Mộc An

(Dân trí) - Nhân dịp năm mới Ất Tỵ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chia sẻ với Dân trí về định hướng và chiến lược giúp Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.

5 định hướng chiến lược để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Nền kinh tế bước vào kỷ nguyên mới

Đâu là những động lực quan trọng nhất mà Việt Nam nên tập trung thúc đẩy ngay từ đầu năm để tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt mục tiêu 8% và phấn đấu đạt 2 con số trong những năm tới, thưa Bộ trưởng?

- Năm 2024, mặc dù có những khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc quyết liệt, nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, nền kinh tế đã khẳng định sự phục hồi mạnh mẽ.

Tăng trưởng GDP cả năm đạt khoảng 7,09%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất trên thế giới, khu vực, tạo nền tảng cho kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển vươn mình của dân tộc.

Kết quả của năm 2024 càng có ý nghĩa khi đây là năm bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025, chúng ta đã vượt qua bối cảnh biến động, khó khăn, thách thức cả ở bên trong và bên ngoài, tiếp tục đạt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Một số động lực chủ yếu là cơ sở để chúng ta có thể tin tưởng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt 8% và phấn đấu đạt 2 con số trong những năm tới.

Trước hết, đó là sự đoàn kết, tinh thần đột phá, đổi mới của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, hiệu quả có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương và ủng hộ của bạn bè quốc tế.

Cùng với đó, những thành tựu phát triển năm 2024 được tiếp nối, thúc đẩy mạnh mẽ hơn trong năm 2025. Các ngành, các địa phương động lực phải phấn đấu tăng trưởng bứt phá, cao hơn năm 2024. Trong đó, Hà Nội, TPHCM phải phấn đấu tăng trưởng 8-10%.

Động lực mạnh mẽ tiếp theo đến từ việc đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược. Trong đó, thể chế được xác định là "đột phá của đột phá" nhằm giải phóng mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực đang bị tồn đọng cho phát triển.

Cần nói thêm, năm 2025 là năm có nhiều thuận lợi trong giải ngân vốn đầu tư công. Các dự án đã hoàn thiện thủ tục đầu tư, bước vào giai đoạn nước rút hoàn thành; đóng góp ngay cho tăng trưởng và mở ra không gian phát triển mới cho các vùng, các địa phương.

Và tất nhiên, ưu thế ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội và triển vọng tăng trưởng của nước ta vẫn được duy trì. Cuối cùng là sự phát triển mạnh mẽ của các ngành, lĩnh vực mới, các mô hình kinh tế mới, động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế và khu vực.

Bộ trưởng có thể cho biết vai trò của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và báo cáo kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030 trong lộ trình tiến tới hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc?

- Báo cáo kinh tế - xã hội là một văn kiện quan trọng của Đại hội XIV đang được xây dựng, hoàn thiện để xác định các phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030.

Nội dung của báo cáo có tính bao trùm trên đầy đủ lĩnh vực, từ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, công tác đối ngoại, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong đó, các định hướng về phát triển kinh tế có vai trò hết sức quan trọng, xoay quanh mục tiêu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhằm tạo tiền đề đạt được mục tiêu tổng quát là đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Những định hướng lớn về phát triển kinh tế trong xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030 là gì?

- 5 định hướng chính phát triển kinh tế cho giai đoạn tới đã được xác định trong báo cáo kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030.

Thứ nhất, tập trung hoàn thiện thể chế phát triển, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó hoàn thiện thể chế chính trị bảo đảm tính vượt trước, dẫn đường, đáp ứng nhu cầu phát triển khách quan và hội nhập của đất nước; hoàn thiện thể chế kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.

Chúng ta cần làm rõ chức năng, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giảm bớt sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào thị trường. Có cơ chế, chính sách đột phá để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó lấy nguồn lực nhà nước khơi dậy, dẫn dắt nguồn lực xã hội.

Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền triệt để, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa trung ương và địa phương với phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm". Trung ương tập trung hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo phát triển, tăng cường kiểm tra, giám sát.

5 định hướng chiến lược để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới - 1

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng (Ảnh: MPI).

Thứ hai, phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế, đáp ứng tính đặc thù của lao động nghiên cứu khoa học và yêu cầu của thực tiễn; chấp nhận rủi ro và độ trễ trong hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Chúng ta cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm an ninh, an toàn, khuyến khích đổi mới sáng tạo. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện, hiệu quả giáo dục, đào tạo, tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho những ngành, lĩnh vực ưu tiên, mới nổi. Phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập.

Ngoài ra, cần đào tạo nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu của thị trường, nhất là những ngành, lĩnh vực ưu tiên, mới nổi như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, chip bán dẫn, xây dựng, vận hành đường sắt cao tốc... Đào tạo, đào tạo lại, chuẩn bị nguồn nhân lực số, kỹ năng số cho chuyển đổi số để phát triển kinh tế số, xã hội số.

Định hướng có cơ chế, chính sách hiệu quả trong phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài nước. Có chính sách hỗ trợ đào tạo trong các ngành Nhà nước ưu tiên phát triển, các ngành khoa học cơ bản, các ngành công nghiệp nền tảng.

Thứ tư, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế; tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô.

Đối với công nghiệp, cần đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, cơ cấu lại công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị tăng thêm và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

Đối với dịch vụ, cần phát triển một số ngành, sản phẩm dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh; hình thành một số trung tâm dịch vụ du lịch với sản phẩm du lịch chất lượng cao, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế; xây dựng và phát triển các trung tâm tài chính, khu thương mại tự do tầm cỡ khu vực và quốc tế.

Đối với nông nghiệp, phát triển các vùng sản xuất tập trung, vùng chuyên canh hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia, địa phương.

Tiếp tục cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm, bao gồm nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công; phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng.

Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường huy động nguồn lực cho phát triển bằng phối hợp đồng bộ, hài hòa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao.

Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, khai thác hiệu quả không gian phát triển mới, lấy đô thị làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới.

5 định hướng chiến lược để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới - 2

Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại là một trong những định hướng chính trong giai đoạn mới (Ảnh: Nam Anh).

Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thông minh, trong đó hình thành các tuyến cao tốc kết nối liên vùng, kết nối các cảng biển cửa ngõ quốc tế, cảng hàng không quốc tế, các cửa khẩu quốc tế có nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa lớn.

Phát triển hạ tầng năng lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao, bảo đảm an ninh năng lượng; đa dạng hóa các loại hình nguồn điện, giá thành phù hợp. Phát triển hạ tầng thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, bảo đảm an ninh nguồn nước; nâng cấp và xây dựng hạ tầng phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Phát triển hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, nhất là tại các đô thị lớn. Tạo đột phá trong phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông, nhất là hạ tầng số. Phát triển đồng bộ, hiện đại hạ tầng văn hóa, xã hội đáp ứng nhu cầu thụ hưởng các dịch vụ xã hội, văn hóa của các tầng lớp nhân dân với yêu cầu ngày càng cao.

Những điểm đột phá mới trong chiến lược phát triển kinh tế

Xin Bộ trưởng cho biết những đặc điểm mới, điểm đột phá mới trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2026-2030 là gì?

- Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2026-2030 là một văn kiện quan trọng của Đại hội XIV đang trong quá trình tiếp tục hoàn thiện sau khi được Hội nghị Trung ương 10 (khóa XIII) thông qua dự thảo các nội dung cơ bản, chuẩn bị các bước xin ý kiến đại hội đảng các cấp.

Với tinh thần chủ đạo là đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, báo cáo lần này có nhiều nội dung định hướng mới, mang tính đột phá bao trùm trên các ngành, lĩnh vực, trong đó có các điểm trọng tâm, cốt lõi.

Thứ nhất, phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm.

5 định hướng chiến lược để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới - 3

Tập trung phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh (Ảnh: IT).

Thứ hai, quyết tâm, nỗ lực đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn tới và tiếp tục duy trì trong dài hạn. Yêu cầu này đặt ra từ Mục tiêu tổng quát trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là đến năm 2045, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Mục tiêu này tuy nhiều khó khăn, thách thức nhưng như kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy, để trở thành nước có thu nhập cao, các quốc gia này đều trải qua các giai đoạn dài trong lịch sử có mức tăng trưởng cao, có thể lên tới hai con số như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Hình thành năng lực sản xuất quốc gia trình độ cao, từng bước tự lực, tự cường về khoa học công nghệ để chủ động tham gia sâu, hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy phát triển kinh tế số, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ; tăng cường ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới.

Nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công; tập trung nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các công trình, dự án trọng điểm, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có vốn Nhà nước; đổi mới mô hình quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 

Thứ tư, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Giảm tỷ trọng chi thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển. Tháo gỡ vướng mắc cho thị trường vốn, thị trường tài chính, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản, đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP); quan tâm phát huy các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội.

Thứ năm, để đạt được mức tăng trưởng cao trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực dự báo còn nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải tập trung thực hiện hiệu quả các đột phá chiến lược đã được xác định qua các kỳ Đại hội Đảng, trong đó hoàn thiện thể chế phát triển được coi là "đột phá của đột phá" của giai đoạn tới.

Với mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành một nước phát triển vào giữa thế kỷ 21, Bộ trưởng cho rằng cần tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên nào để đảm bảo sự phát triển toàn diện và bền vững, duy trì sự cân bằng giữa phát triển kinh tế thị trường và thực hiện các mục tiêu xã hội?

- Để tận dụng cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, Đảng và Chính phủ đã đưa ra một số chiến lược và chính sách phù hợp, kịp thời nhằm đáp ứng với tình hình mới.

Có thể liệt kê như Chỉ thị số 16-CT/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 52/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Quyết định số 749/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030", Quyết định số 2289/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,...

Với mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành một nước phát triển vào giữa thế kỷ 21, để bảo đảm sự phát triển toàn diện và bền vững, duy trì sự cân bằng giữa phát triển kinh tế thị trường và thực hiện các mục tiêu xã hội, theo chúng tôi, mọi chủ trương, chính sách đều phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng và hạnh phúc của Nhân dân.

Chúng ta lấy phát triển để duy trì ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển; đồng thời phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm.

Cụ thể như sau:

Đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế, cần đặc biệt quan tâm đến đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế; tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô.

Chủ động nắm bắt, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ quá trình chuyển đổi chưa từng có của kinh tế thế giới và hội nhập quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Phát triển lực lượng sản xuất mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới; thúc đẩy mô hình tăng trưởng kinh tế thích ứng với biến đổi khí hậu, theo hướng xanh, hiệu quả và bền vững. Kiên trì thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đề ra, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển cả trước mắt và dài hạn.

Tập trung nâng cao năng lực sản xuất trong các ngành, lĩnh vực đạt trình độ cao, nhất là một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp mới nổi, công nghiệp hỗ trợ, từng bước tự lực, tự cường về khoa học công nghệ để chủ động tham gia sâu, hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Đối với nhiệm vụ xã hội, cần hướng tới mục tiêu phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tập trung nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân. Phát triển văn hóa, xã hội, gắn kết chặt chẽ, hài hòa với phát triển kinh tế; coi trọng phát triển văn hóa, xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế.

Tiếp tục xây dựng, triển khai hệ giá trị quốc gia văn hóa, gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, thực hiện bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ, hiện đại và hội nhập. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, hiện đại, thích ứng linh hoạt.

Điều chỉnh cách tiếp cận về an sinh xã hội từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân. Thực hiện tốt các chính sách tôn giáo, tín ngưỡng; công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ; phát triển thanh niên; bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

Đối với nhiệm vụ môi trường, các giải pháp cần hướng tới quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.

Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy chuyển sang sử dụng năng lượng sạch, phấn đấu đưa mức phát thải ròng của quốc gia về "0" vào năm 2050. Tăng cường huy động nguồn lực từ các định chế, cơ chế tài chính toàn cầu; phát triển thị trường tín chỉ các-bon, quan tâm thị trường tín chỉ các-bon từ rừng và từ lúa chất lượng cao. Phát triển hạ tầng thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt kết hợp tái chế, thu hồi năng lượng.

Quyết liệt xử lý tình trạng ô nhiễm không khí ở các đô thị thông qua phát triển giao thông công cộng, loại bỏ dần phương tiện giao thông gây ô nhiễm chuyển sang các phương tiện thân thiện môi trường và phát triển các công trình xanh, nâng diện tích cây xanh. Kiểm soát chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản. Xây dựng, củng cố hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!