1kg vải thiều = 2 ly trà đá
Vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang) đang vào chính vụ và năm nay được mùa. Nhưng chính quyền huyện cũng như người trồng vải lại lo vì đầu ra quả vải bị phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc.
Chẳng được là bao
Chở một sọt vải kềnh càng đi 6-7km về chợ vải phố Kim (xã Phượng Sơn), sau khi cân bán cho điểm mua Đoàn Tú, nhận mấy trăm ngàn đồng ướt nhoẹt mồ hôi, ông Hà Gia Phú (xã Đông Hưng) ngao ngán: “Hơn tạ vải chỉ được 600.000 đồng. Được từng này tiền nhưng vất vả lắm, bao công sức chăm bẵm, thu hái, phân loại”.
Gạt những giọt mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt sau bốn chuyến chở vải ra phố Kim bán, chị Lê Thị Liễu (thôn Chể, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn) thở dài: “Năm ngoái bán xô tại vườn cũng được 13.000 đồng/kg, năm nay phải tự bẻ mang ra tận điểm cân mà cũng chỉ được 5.000 đồng/kg”. Trong khi đó, giá trà đá có lúc là 2.500 đồng/ly.
Theo ông Hà Gia Phú, với hơn 100 gốc vải dự kiến thu cỡ 10 tấn, giá bán bình quân 6.000-7.000 đồng/kg, dự kiến năm nay nhà ông thu khoảng 65-70 triệu đồng, trừ tiền phân bón, thuốc trừ sâu 7 triệu, tiền công cũng cỡ 7 triệu đồng, rồi tiền nuôi thợ thì cả nhà “lãi” khoảng 45 triệu đồng.
Số tiền này khá lớn so với cuộc sống của người dân vùng trung du, miền núi như Lục Ngạn. Nhưng nếu tính cả năm mà cả nhà 4-5 nhân khẩu chỉ trông chờ vào vải như thế thì cũng chẳng được là bao.
Dù sao bán được giá như ông Phú cũng là may vì vải của ông thuộc loại khá đẹp, quả đỏ đều, căng mọng, không chấm (vết sâu bệnh), còn khá nhiều nông dân khác chỉ bán được giá 3.500-5.000 đồng/kg. Để cứu vãn mùa vải của mình, anh Phạm Văn Tư (thôn Ngọt, xã Hồng Giang) quyết định xây lò sấy, thuê bốn thợ hái đại trà (hái cây nào hết cây đấy, không hái chọn) để tự sấy rồi xuất bán sang Trung Quốc.
Và để mỗi ngày đủ một mẻ sấy khoảng 3 tấn vải, anh còn lập điểm mua vải ngay tại nhà, thuê thêm năm thợ sấy vải (200.000 đồng/người/ngày, chưa kể nuôi ăn ba bữa).
Theo anh Tư, nếu giá vải tươi mua 3.000-4.000 đồng/kg thì một mẻ lò 3 tấn vải cũng “nướng” cỡ 11-12 triệu đồng. Nhưng bù lại, giá 1kg vải khô khi xuất bán tại Đồng Đăng được cỡ 8-10 tệ/kg (1 tệ Trung Quốc bằng gần 3.200 đồng). Một mẻ lò/ngày được gần 1 tấn vải khô, thu 25-30 triệu đồng. Trừ mọi chi phí cũng thu hơn bán vải tươi.
Phụ thuộc vào... Trung Quốc
Ông Chu Văn Báo, trưởng Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lục Ngạn, cho biết vải Lục Ngạn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc. Vụ vải năm 2010 mất mùa nên sản lượng cả huyện chỉ 60.000 tấn, nhưng có đến 30.000-40.000 tấn được các thương nhân Trung Quốc mua.
Năm nay sản lượng tăng gần gấp đôi năm ngoái, có thể đạt 100.000 tấn, ông Báo cho biết tư thương Trung Quốc phải tiêu thụ đến 60% và họ chỉ mua loại vải ngon nhất, đẹp nhất. Trong 100.000 tấn thì khoảng 20% là vải loại 1, 50% vải loại 2, khoảng 25% vải loại 3 và còn lại là loại “vải rừng” (xấu nhất). Đã là vải thiều trồng trên đất Lục Ngạn thì đều ngon, ngọt, mọng nước, róc hạt.
Việc phân loại chỉ căn cứ vào vải trồng theo quy trình Viet GAP (tiêu chuẩn VN về chất lượng, an toàn và truy nguyên được nguồn gốc) hay không và phụ thuộc vào hình dáng, mẫu mã bên ngoài. Tư thương Trung Quốc thường sẽ mua toàn bộ vải loại 1 và 70-80% số vải loại 2 bằng mọi cách, kể cả nâng giá để mua. Số vải loại 2, loại 3 còn lại các tư thương mua đưa vào miền Trung, miền Nam và các tỉnh lân cận.
Ông Tăng Đức Hậu, đội phó Đội quản lý thị trường số 3 Lục Ngạn, cho biết năm nay lượng tư thương Trung Quốc sang tận nơi mua vải nhiều hơn năm ngoái, ít nhất đến lúc này cũng có đến khoảng 30 thương nhân ở hẳn Lục Ngạn để mua hàng. Tại chợ, A Tùng - một tư thương từ Bằng Tường (Trung Quốc) - cho biết đã sang VN làm ăn hơn 10 năm nay và có ba mùa vải liên tiếp trực tiếp đến Lục Ngạn mua vải.
Có lẽ vì thế mà A Tùng nói tiếng Việt khá rành và biết được cả tâm lý người trồng vải. Theo A Tùng, vì đã sang tận nơi để mua vải về bán ở Bắc Kinh, Chiết Giang, Phúc Kiến nên phải mua vải thật đẹp, thật ngon. Bà Hải Bích, một người đứng ra mua vải cho tư thương Trung Quốc, cho biết mỗi ngày bà mua khoảng 30-35 tấn, đủ đóng hai container. Vải thì cùng một loại (chỉ loại 1) nhưng không phải cùng một giá. “Giá vải mình không quyết định mà do chính người Trung Quốc đứng ra mặc cả với nông dân” - bà Bích nói.
“Bửu bối” giúp nông dân bán được giá cao
Ông Nguyễn Như Tiệp, cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), cho rằng sản xuất nông nghiệp khó có thể tránh được quy luật cung - cầu của thị trường, nên khi cung lớn mà cầu không biến động chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng “được mùa rớt giá”. “Vải thiều hay bất cứ loại nông sản nào nếu thực hiện sản xuất theo quy trình, tiêu chuẩn Viet GAP thì sản phẩm bao giờ cũng được đảm bảo chất lượng, giá lại cao” - ông Tiệp khẳng định.
Theo ông Tiệp, Lục Ngạn có gần 20.000ha trồng vải thiều nhưng mới có khoảng 6.000ha thực hiện trồng theo quy trình Viet GAP. Qua kiểm tra thực tế giá vải Viet GAP luôn cao hơn và bán rất chạy. Ngược lại, không theo quy trình này giá rất thấp và phụ thuộc hoàn toàn vào người mua.
“Nếu thực hiện đúng thì Viet GAP chính là bửu bối giúp nông dân yên tâm sản xuất, trồng trọt” - ông Tiệp nói. Việt Nam và Trung Quốc đã có thỏa thuận hợp tác, vì thế hàng nông sản xuất nhập khẩu theo đường chính ngạch cần phải có bao bì ghi rõ nguồn gốc xuất xứ. Muốn vậy, phải sản xuất theo tiêu chuẩn Viet GAP mới đảm bảo xuất khẩu. Còn với hầu hết vải thiều hay bất cứ mặt hàng nông sản nào khác không có bao bì, nhãn mác ghi rõ nguồn gốc xuất xứ thì phải chấp nhận bán ngoài thị trường. |